Nam Nguyên, phóng viên RFA 2013-02-15
Cuối năm ngoái, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tự hào về việc thu nhập bình quân đầu người năm 2012 của Việt Nam đã gần chạm mức 1.600 USD. Tuy vậy Thủ tướng đã không đề cập đến khoảng cách giàu nghèo giữa nông thôn thành thị đang gia tăng đến mức báo động.
Tải xuống - download
Khoảng cách giàu, nghèo vẫn còn rất lớn
Nhận định về sự cách biệt thu nhập hơn 9 lần giữa các nhóm giàu và nghèo ở Việt Nam, dù nền kinh tế thị trường được nói là có định hướng xã hội chủ nghĩa, Bà Phạm Chi Lan chuyên gia kinh tế nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, từ Hà Nội phát biểu: “Đây là một thực tế đau lòng, tôi nghĩ là ngay cả những vị lãnh đạo cao nhất của Việt Nam thì cũng đã thấy và điều đó cũng không đúng với tôn chỉ mục đích mà lãnh đạo của Đảng Cộng sản đưa ra. Tuy nhiên trong quá trình phát triển có nhiều việc không kiểm soát được tốt, nhất là trong mấy năm gần đây khi nền kinh tế phát triển quá nóng cũng không kiểm soát được và vì vậy làm cho một số nhóm lợi ích nào đó có thể được hưởng lợi rất nhiều, trong khi những người khác lại chịu hệ quả của tình hình bất ổn kinh tế vĩ mô hoặc lạm phát lên cao và làm cho vật giá leo thang và đời sống của họ khó khăn hơn. Đây cũng là một trong những điều quan trọng nhất mà chúng tôi cũng đang nỗ lực, để làm sao đóng góp để Việt Nam có thể thay đổi theo hướng công bằng hơn trong phát triển. Hầu hết báo chí Việt Nam đều đưa tin về bài phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Hội nghị các nhà tài trợ cho Việt Nam tổ chức tại Hà Nội vào tháng 12 năm ngoái. Lúc ấy, ngườiđứng đầu chính phủ đã so sánh thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam tại thời điểm 1992 chỉ ở mức 140 USD/năm và mức 1.538 USD/năm hiện nay. Bộ máy truyền thông Nhà nước tán dương mức tăng hơn 11 lần về thu nhập bình quân đầu người ở Việt Nam trong 20 năm qua. Tuy vậy đã không có tờ báo nào đưa ra sự so sánh với các quốc gia khác, dù chỉ với các nước trong khu vực mà thôi. Theo Ngân hàng Thế giới, thống kê năm 2011 cho thấy thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam là 1.407 USD/năm trong khi của Malaysia 9.977 USD, Thái Lan là 4.972, Indonesia 3.495 USD và Philippines 2.370 USD. Sự tụt hậu của Việt Nam so với khu vực nói chung là đáng xấu hổ, vì đất nước đã hoàn toàn thống nhất từ gần 40 năm qua. Trong bối cảnh như vậy, ở Việt Nam lại đang có một khoảng cách rất lớn về đời sống giữa người giàu và người nghèo, cũng như giữa nông thôn và thành thị. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam, nếu như khoảng cách thu nhập trung bình giữa người giàu và người nghèo ở Việt Nam là 8,9 lần trong năm 2008 thì đến năm 2011 mức này là 9,2 lần. Sự khác biệt về mức sống giữa nông thôn và thành thị là điều hiển nhiên và có thể thấy ngay lập tức. Các số liệu chính thức cho thấy ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, ruộng đất phì nhiêu nơi cung cấp 90% lượng gạo xuất khẩu 7,7 triệu tấn gạo trong năm 2012, nhưng hộ nông dân trồng lúa chỉ có diện tích trung bình khoảng 0,6 héc-ta. Dựa trên giá lúa bảo đảm nông dân có lãi 30%, thì thu nhập bình quân của nông dân theo đầu người chỉ vào khoảng 316.000 đ/tháng. Tức là nông dân đồng bằng sông
Cửu Long nói chung dư tiêu chuẩn nghèo hiện hành được qui định 400.000 đ/tháng/người.
Thiệt thòi vẫn là người nông dân
Ông Ba, một người trồng lúa vùng đồng bằng sông Cửu Long cho biết gia đình ông tích tụ 10 héc-ta ruộng nên cuộc sống tương đối đỡ vất vả. Nhưng ông cho biết đại đa số những người quanh ông đều canh tác dưới 1 héc-ta. Ông nói: “Tôi mong làm sao chênh lệch giữa giàu với nghèo được giảm bớt đi. Thực tế bây giờ, người giàu không lao động cực nhọc như người nông dân nhưng rất giàu, rất nhiều người giàu nhưng đại đa số nông toàn là rất nghèo, tôi thấy ở Việt Nam không có công bằng xã hội. Vừa rồi tôi có dịp đi qua Malaysia, nước người ta người nghèo vẫn có xe hơi, trong khi đó ở nông thôn Việt Nam nếu mà làm tới năm, bảy trăm công ruộng cũng không dám mơ có cái xe con để đi lại. Sự chênh lệch cho thấy người nông dân thiệt thòi nhiều quá.” Ông Ba cũng bày tỏ hy vọng chính phủ có những chính sách thích hợp để gia tăng đất sản xuất cho nông dân, cũng như bảo đảm đầu ra lúa gạo với giá cả hợp lý.Thực tế bây giờ, người giàu không lao động cực nhọc như người nông dân nhưng rất giàu, rất nhiều người giàu nhưng đại đa số nông toàn là rất nghèo, tôi thấy ở Việt Nam không có công bằng xã hội“ Ở nông thôn người nghèo còn nhiều, mong ước chính phủ làm
Ông Ba
sao cho người nông dân có trong tay khoảng 1 héc-ta (10.000 m2) để canh tác thì mới khá được. những người đất ít với giá gạo xuất khẩu bấp bênh, lạm phát đồng tiền mất giá, cái gì cũng cao chi phí cũng cao, xăng dầu cũng cao, chỉ riêng lúa gạo là thấp, cứ triền miên như vậy thì nông dân sẽ khổ. Chính phủ có trách nhiệm làm sao cho giá xuất khẩu gạo tăng lên, có giá hợp lý đối với nông dân. Nếu không thì nông dân còn khổ dài dài.” Đó là tâm sự của nông dân đồng bằng sông Cửu Long vựa lúa trù phú nhất Việt Nam. Nếu nông dân miền tây nam bộ còn khó khăn như vậy thì tình cảnh những người làm ruộng ở miền Trung thật khó diễn tả. Một nông dân Phú Yên phát biểu: “Mỗi năm tôi làm hai mùa lúa, nhưng theo điều kiện hoàn cảnh hiện tại ở Phú Yên, ruộng đất chia ra mỗi người chỉ có 500 mét vuông thôi. Vì không đủ ăn tôi phải tìm kế mưu sinh, làm những công việc chân tay như phụ hồ, hay những công việc lặt vặt khác để trang trải cho cuộc sống. Vụ lúa này đã xuống giống khoảng một tháng, hiện giờ người ta đã cấy dặm. Làm ruộng ở đây nói chung là để có hạt lúa mà ăn thôi, còn lợi nhuận từ đồng ruộng thì kém cỏi lắm. Bình thường năng suất 300kg lúa/sào Trung bộ, trừ chi phí này nọ, đóng tiền hợp tác xã, thuế công ích…tính ra chỉ còn 100kg lúa trên một sào theo giá thị trường được 500 ngàn, chia 6 tháng thì mỗi tháng được khoảng 90 ngàn.” Điều gì đang xảy ra trong quá trình phát triển ở Việt Nam. Với dân số 90 triệu và có 3/4 sinh sống ở nông thôn, nhưng người dân thôn quê và người làm nông lại quá nghèo. Những bất cập trên thực tế đã được TS Đặng Kim Sơn, Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp nông thôn giải đáp với chúng tôi trong một cuộc phỏng vấn trước đây: “…Phải nói rằng cái mà nông dân được hưởng nông nghiệp được đầu tư thì chưa tương xứng với mức độ đóng góp của người nông dân, vơi mức độ phấn đấu hy sinh của người nông dân cũng như những thành tích mà nông nghiệp đem lại. Đầu tư công cho nông nghiệp là thấp, đầu tư của toàn xã hội cho nông nghiệp là thấp, mức tăng trưởng đời sống của nông dân tuy rất cao nhưng chậm hơn nhiều so với mức tăng trưởng của đời sống của người dân ở đô thị, hiện nay khoảng cách về thu nhập trung bình của cư dân nông thôn chỉ bằng nửa của đô thị...” Những gì TS Đặng Kim Sơn phát biểu với chúng tôi trước đây hiện vẫn còn nguyên giá trị. Giới chuyên gia nhân sĩ trí thức không ít lần cảnh báo, Việt Nam cần có những cải cách cấp thời về các thể chế liên quan đến chính trị, kinh tế xã hội, trong đó có vấn đề tư hữu đất đai, để lợi ích phát triển được chia sẻ công bằng. Ngược lại thì chính hố sâu cách biệt giàu nghèo hiện nay sẽ là tiền đề dẫn tới những bất ổn và xáo trộn khó lường. _____________________
Dân số và sự giàu nghèo
Vũ Hoàng & Nguyễn Xuân Nghĩa, RFA
2013-01-16
Tiếp tục loạt bài về các yếu tố phát triển một quốc gia, chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa nói đến dân số hay sức người.Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nguyễn-Xuân Nghĩa. Tiếp theo chương trình kỳ trước, về những quy luật của sự giàu nghèo tại các quốc gia trong lịch sử và ngay trong hiện tại, xin đề nghị ông trình bày một yếu tố mà ngày nay nhiều người đang nói tới, là dân số. Người ta nói tới là vì hiện tượng lão hóa dân số trong các nước công nghiệp hoá và vì sức đua tranh hiện nay của hai nền kinh tế đang phát triển có dân số đông nhất địa cầu, là Trung Quốc và Ấn Độ.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Như thường lệ, tôi sẽ nói về bối cảnh trước và trước hết xin giải độc ở một số ngộ nhận tai hại. Trong một giai đoạn quá lâu, người ta cứ cho rằng các nước nghèo sở dĩ gặp phải phận nghèo vì dân số quá đông cho nên có một cái bánh mà phải chia cho quá nhiều người thì ai cũng phải nhận một phần nhỏ hơn. Đây là một sai lầm về lý luận kinh tế và còn dẫn đến tinh thần giành giựt miếng ăn mà không nhìn ra cách sản xuất một cái bánh to hơn.
Người ta sở dĩ sai lầm như vậy vì từ mấy trăm năm nay, từ các nước kỹ nghệ hoá đã xuất hiện lời báo động về nạn "nhân mãn", nói nôm na là "quá đông người". Ta nhớ rằng mục sư Malthus là kinh tế gia người Anh đã cảnh báo từ thế kỷ 18 rằng nếu không có biện pháp ngăn ngừa thì dân số nhân loại gia tăng theo cấp số nhân sẽ vượt quá phương tiện sinh hoạt chỉ gia tăng theo cấp số cộng và thế giới sẽ khủng hoảng. Sau này, ta thấy cái nhìn bi quan ấy là không đúng.
Vũ Hoàng: Thưa ông, có thể là không đúng trong các nước tư bản công nghiệp hóa nhờ cuộc cách mạng về khoa học kỹ thuật với nhiều ứng dụng trong sản xuất kinh tế, chứ tại các nước nghèo thì chúng ta có thấy sự bùng phát dân số nhanh hơn sản lượng kinh tế chứ? Ông giải thích thế nào về chuyện này?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa là trong một giai đoạn nhất định thì chuyện ấy có thể đã xảy ra nên mới dẫn đến lý luận sai lạc về nạn nhân mãn. Một cách giản dị cho dễ nhớ về một thí dụ tiêu biểu thì người ta cho rằng liều thuốc kháng sinh trị giá mấy đồng bạc có thể cứu được mạng sống của một người nghèo trong một xứ gọi là chậm tiến, nhưng nếu phải nuôi người đó trong cả đời thì xứ này sẽ không có đủ phương tiện, vì thế mới báo động về nạn nhân mãn và đề cao việc giới hạn đà gia tăng dân số tại các nước nghèo.
Sự thật nó lại rắc rối hơn vậy và tôi cho rằng đây mới là một lý luận chậm tiến, lạc hậu, vì người ta lầm lẫn về tương quan nhân quả của sự giàu nghèo. Cũng vì vậy mà mình mới phải có loạt bài cơ bản này. Câu chuyện còn rắc rối hơn khi nhiều nước nghèo lại bị mê hoặc bởi lý luận Mác-xít nên là nạn nhân của cả Malthus lẫn Marx và Lenin mà không nhìn ra sự thật.
Vũ Hoàng: Ông hay có lối nói ví von để gợi ý tò mò. Thưa ông, thế nào là nạn nhân của cả Malthus lẫn Marx và Lenin?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Xuất phát từ lý luận tiêu cực của Malthus, người ta cho rằng các nước đang phát triển, thuộc Đệ tam Thế giới hay Thế giới Thứ ba, sở dĩ nghèo đi là vì nạn nhân mãn nên nghĩ đến việc kiểm soát dân số hay kế hoạch hóa gia đình. Thế rồi, nhiều người theo lý luận Mác-Lenin lại cho rằng các quốc gia ấy sở dĩ gặp cảnh nghèo khó là vì bị tư bản bóc lột chứ không vì dân số quá đông. Họ đả phá lập luận bi quan của Matlhus và đề cao lý luận lạc quan của Marx về cuộc cách mạng để giành lấy phần hơn của một cái bánh vẫn có kích thước như cũ mà không nhìn đến giải pháp phát triển thực sự. Bây giờ ta trở về sự sai lầm về "nhân mãn".
Sự sai lầm về "nhân mãn"
Vũ Hoàng: Ông cho rằng khái niệm "nhân mãn" này là một sự sai lầm?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Không những thiếu chính xác vì không phản ảnh thực tế mà còn có thể dẫn đến liều thuốc đổ bệnh và làm cho lãnh đạo các nước nghèo lấy quyết định sai lầm.
Trước hết, thế nào là "nhân mãn" hay "overpopulation", nói theo Anh ngữ? Là quốc gia có dân số đông hơn khả năng cung ứng của địa lý hay thiên nhiên chăng? Thí dụ như nếu tính theo dân số trên diện tích đất đai chẳng hạn thì ta có "mật độ dân số" là số bình quân của người dân trên một cây số vuông. Liệu mật độ quá cao có thể giải thích vì sao quốc gia ấy nghèo hay chăng?
Xét theo tiêu chuẩn ấy, Việt Nam có 90 triệu dân trên 330 ngàn cây số vuông thì có mật độ là 265 người cho một cây số vuông. So với mật độ của Đài Loan là 642 người, của Nam Hàn là 490 người thì Việt Nam chưa bị hiện tượng nhân mãn và đáng lý phải giàu hơn chứ? Sự thật lại trái ngược như ai cũng có thể thấy. Nếu có tính cho tinh vi hơn, như là xem trên diện tích chung đó có bao nhiêu cây số vuông là khả canh, tức là có thể canh tác nhờ điều kiện địa dư hoặc kỹ thuật nông nghiệp, hoặc ở bên dưới còn có những tài nguyên thiên nhiên nào có thể khai thác thì vấn đề vẫn y như vậy. Việt Nam có điều kiện địa dư và khoáng sản cao hơn mà vẫn nghèo hơn. Lý do của sự giàu nghèo nó phải nằm ở chỗ khác, thí dụ khả năng khai thác tài nguyên thiên nhiên nằm dưới lòng đất, nghĩa là ở cái đầu của con người.
Vấn đề của Việt Nam không là dân số mà là dân trí và trình độ của lãnh đạo.Vũ Hoàng: Chưa kể là nếu một quốc gia có dân cư quá thưa thớt thì việc giao lưu buôn bán chưa chắc đã có lợi bằng một xứ có mật độ dân số cao hơn và tập trung hơn. Có phải thế không?
Nguyễn-Xuân Nghĩa
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa ông đúng như vậy. Các nước Châu Phi trong vùng sa mạc Sahara có khi chẳng bị nạn nhân mãn như Đài Loan hay Nhật Bản mà vẫn nghèo là vì lý do khác. Kỳ trước, ta nhắc đến trường hợp Argentina tại Nam Mỹ. Xứ này giàu tài nguyên đủ loại, không quá đông dân và bước vào thế kỷ 20 thì là một trong 10 nước giàu nhất thế giới, hơn hẳn Đức, Pháp mà nay họ bị tụt hậu và nghèo đi thì chẳng phải vì bị nạn nhân mãn mà vì sai lầm của lãnh đạo.
Lý luận về nhân mãn, là vì quá đông dân mà quốc gia nghèo đi, không giải thích được tương quan nhân quả về sự giàu nghèo. Khả năng khai thác tài nguyên có sẵn từ cả vạn năm ở nơi đó, như là thác nước hay giếng dầu, cũng là một biểu hiện khác của sự giàu có và đưa bài toán dân số vào đó chẳng giải quyết được vấn đề mà còn mình có cái nhìn lệch lạc về chính sách kinh tế.
Vũ Hoàng: Chúng ta trở lại trường hợp của Trung Quốc và Ấn Độ, hai quốc gia đông dân nhất thế giới hiện nay. Ông giải thích thế nào về yếu tố dân số trong sự phát triển của hai xứ này?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Trung Quốc đang là cường quốc kinh tế và lò chế biến của thế giới nhờ dân số rất cao là một tỷ 350 triệu dân với mật độ chỉ có chừng 140 người trên một cây số vuông. Sở dĩ như vậy là vì xứ này cải cách kinh tế từ 30 năm qua chứ không còn mù quáng theo chính sách bế quan toả cảng và chế độ tập trung quản lý của quá khứ. Ấn Độ đi sau, kém 100 triệu dân và có mật độ cao gấp bội là 370 người, và mới chỉ cải cách từ hơn 20 năm thôi.
Nhưng lãnh đạo Trung Quốc đã sợ nạn nhân mãn mà kế hoạch hóa gia đình với chính sách mỗi hộ một con áp dụng từ năm 1978. Ngày nay, họ bắt đầu thấy ra hậu quả là dân số chậm tăng, bị lão hóa và mất sức cạnh tranh. Trong khi ấy, dù đông dân và có mật độ cao hơn, Ấn Độ lại theo hướng khác và ngày nay có dân số trẻ hơn, và nhờ vậy sẽ có ngày bắt kịp sản lượng Trung Quốc. Vì vậy, quy luật ở đây không là dân số hay cái lượng mà là cái phẩm, là khả năng đóng góp của mỗi người vào sự thịnh vượng chung của cả cộng đồng.
Trường hợp Việt Nam
Vũ Hoàng: Qua phần cuối, ta nói về trường hợp Việt Nam. Quốc gia này cũng có một dân số khá đông và phải nói là khá trẻ sau mấy chục năm chiến tranh liên tục. Liệu dân số hay nhân khẩu có là một vấn đề trong bài toán giàu nghèo của Việt Nam hay không?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi còn nhớ 20 năm trước có lãnh tụ Đông Nam Á nhận xét là nếu họ có lãnh thổ như Việt Nam thì đã nuôi nổi 200 triệu dân. Bản thân tôi còn thấy nhiều giới chức tại Đài Loan mở tấm bản đồ xứ mình giải thích rằng họ có thể phát triển khu vực này hay ngành nghề nọ, như Pháp nói về Đông Dương ngày xưa vậy! Đau lòng lắm khi thấy sau đó họ thực hiện các dự án như đã trù hoạch từ trước.... Vấn đề của Việt Nam không là dân số mà là dân trí và trình độ của lãnh đạo.
Vũ Hoàng: Xin ông giải thích cho điều ông vừa phát biểu.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi thiển nghĩ lãnh đạo một nước không thể chủ quan duy ý chí mà quyết định về dân số hay tỷ lệ sinh nở cao thấp của người dân. Đây là yếu tố văn hóa và xã hội với hậu quả lặng lẽ, rất chậm và rất mạnh mà mình chỉ thấy trong trường kỳ, nếu có viễn kiến.
Khi hiểu ra điều ấy thì người ta phải thấy rằng mỗi công dân sinh ra đời có thể là một miệng ăn nhưng sẽ là đôi tay làm và được hướng dẫn bằng cái đầu, bằng trí tuệ. Nếu thực tình tin vào khả năng tiến hóa của con người thì nên lạc quan nghĩ đến khả năng đóng góp và giải quyết bài toán kinh tế của công dân hơn là bi quan cho rằng mỗi người sinh ra sẽ là một của nợ, một gánh nặng.
Từ đó, thì lãnh đạo phải tạo điều kiện mở mang dân trí và bản thân phải nâng cao trình độ quản lý, tức là phải ý thức được những giới hạn của mình, là chuyện không hề có tại Việt Nam.
Một cách cụ thể thì họ phải xây dựng hạ tầng yểm trợ người dân trong công cuộc phát triển. Hạ tầng đó gồm có nền tảng pháp quyền, là luật lệ thông thoáng minh bạch cho kinh doanh sản xuất như ta đã nói kỳ trước.
Hạ tầng đó cũng là cơ sở khai thác tài nguyên và chuyên chở để giải quyết bài toán khan hiếm và phân phối tại những nơi xa xôi nhất. Quan trọng hơn cả và nói về dân trí hay khả năng sản xuất của một dân số rất đông và trẻ, ta nên nghĩ đến giáo dục và đào tạo.
Khi lãnh đạo còn bắt giam những người trẻ vì sự khát khao của họ thì đấy không còn là vấn đề dân trí mà là chuyện "quan trí" - hay lòng ái quốc không hề có của những kẻ đang cầm quyền.Vũ Hoàng: Đó là câu kết luận, thưa ông, giáo dục và đào tạo dân số của Việt Nam có vấn đề gì?
Nguyễn-Xuân Nghĩa
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Nếu sự giàu có hay thịnh suy của xứ sở nằm trong cái đầu người dân hơn chỉ là cái miệng đòi ăn thì việc giáo dục từng người từ cấp trung tiểu học phải là nhiệm vụ ưu tiên và lâu dài của chính quyền. Nôm na là phải có nền giáo dục miễn phí cho mọi người trong mươi mười hai năm đầu để có nền tảng dân trí tối thiểu và sự bình đẳng cho toàn dân.
Sau bậc trung học thì hệ thống giáo dục và đào tạo tay nghề hay chuyên môn phải được mở ra cho tư nhân tham gia vì họ ý thức được yêu cầu của thự tế, của thị trường. Tức là phải tư nhân hóa, hay "xã hội hóa" nói theo người Hà Nội bây giờ. Việt Nam lại làm ngược với các nước Đông Á nghèo hơn mà có trình độ phát triển cao hơn.
Đó là thả nổi giáo dục trung tiểu học cho tư nhân khai thác, tức là nhà nước phủi tay với đại đa số con trẻ và tạo ra một rào cản bất công vì không trợ cấp học phí. Sau đó, nhà nước lại còn kiểm soát hệ thống giáo dục ở cấp cao đẳng và đại học vì muốn bảo vệ tư tưởng của chế độ nên mới gây ra khủng hoảng về đào tạo trong khi cả một thế hệ năng động đang khát khao học hỏi kiến thức mới lạ của thế giới văn minh bên ngoài.
Khi lãnh đạo còn bắt giam những người trẻ vì sự khát khao của họ thì đấy không còn là vấn đề dân trí mà là chuyện "quan trí" - hay lòng ái quốc không hề có của những kẻ đang cầm quyền.
Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nghĩa về cuộc trao đổi thật hào hứng này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bấm vào dưới avata "Tham gia trang web này " để có thể biết bài mới của Ròm