Nam Ròm




Hình xưa VNCH
Tin tức đó đây
Sách xưa thời VNCH
Hình vui Ảnh đẹp
Thơ vui, chuyện tiếu , mẹo vặt linh tinh ...

Chủ Nhật, 19 tháng 8, 2012

Khoảng 90% 'đặc sản' Ðà Lạt là từ Tàu+

Vùng cao nguyên Lâm Ðồng nổi tiếng lâu đời của Việt Nam cùng với Ðà Lạt hiện nay đang có tới 90% “đặc sản” xuất xứ từ... Trung Quốc. Các loại “đặc sản” này đang được bày bán khắp nơi, từ chợ Ðà Lạt, cho đến các nhà hàng, quán ăn... mà du khách có thể vừa ăn “tại chỗ,” vừa mua về làm quà tặng người thân.


Một góc hàng rau xanh ở chợ Ðà Lạt. Truyền thông Việt Nam cho hay, 90% đặc sản của thành phố này có xuất xứ từ Trung Quốc. (Hình: Getty Images)

Tiết lộ mới của Bee.net.vn nói rằng rất nhiều loại “đặc sản” lâu nay nổi tiếng ngon của thành phố Ðà Lạt như bông, lá atichaud, mận, đào, hồng, dâu tây... cũng như các loại mứt trái cây, trà, cà phê, kể cả rau, củ... nay toàn là hàng Trung Quốc nhập cảng.

Một số du khách vừa đi thăm thành phố Ðà Lạt về gọi đó là “sự lừa dối đến trắng trợn khiến mọi người bất bình.”

Bee.net.vn trích lời của một du khách đến Ðà Lạt từ miền Bắc Việt Nam cho biết đã khệ nệ ôm về “một đống đặc sản Ðà Lạt” có gắn nhãn “made in Ðà Lạt” đàng hoàng. Nhưng chừng về đến tận Hà Nội, ông mới bật ngửa ra là tất cả những món hàng “đặc sản Ðà Lạt” này đang được bán đầy chợ Ðồng Xuân.

Ðáng nói hơn, một số nhà vườn Ðà Lạt hiện nay cũng bày bán các loại “đặc sản” như bông artichad, trà, cà rốt, khoai tây... gắn nhãn Ðà Lạt, nhưng sự thật là hàng của Trung Quốc.

Cũng theo Bee.net.vn, người ta tính có tới 90% “đặc sản” Ðà Lạt được bày bán ở các chợ và cửa tiệm khắp tỉnh Lâm Ðồng là hàng Trung Quốc.

Một số du khách còn than thở: “Bị lừa kiểu này thật nhục. Cú lừa này làm ô danh thành phố Ðà Lạt khiến chúng tôi chán ngán chẳng còn muốn mua sắm gì hết ở đấy.”

Một số du khách trẻ cho rằng Ðà Lạt là thành phố “đẹp nên thơ” lâu nay và bán toàn mứt kẹo “đặc sản” Ðà Lạt, “nhìn mà phát thèm.” Tin 90% “đặc sản Ðà Lạt” là hàng Trung Quốc đã làm họ bất ngờ.

Không chỉ thực phẩm, hầu như tất cả các loại quần áo, nón, găng tay, vớ... cũng đều được nhập từ Trung Quốc. Lần này thì giới tiểu thương Ðà Lạt phải thừa nhận rằng hàng Trung Quốc vừa rẻ, vừa bắt mắt, cho nên họ mua về, đổi nhãn hiệu thành “đặc sản Ðà Lạt” bán với giá cao gấp bội. (PL)


Theo NVOnline
http://www.quehuongngaymai.com/forums

Tiền thuế của dân là 'tiền chùa!'



Friday, August 17, 2012 3:30:29 PM
Song Chi/Người Việt

Tình trạng lãng phí tràn lan trong đầu tư công, hay chất lượng kém do nạn tham nhũng, “rút ruột công trình” ở VN là “chuyện biết rồi, nói mãi.”
Nhà máy lọc dầu Dung Quất, tỉnh Quảng Ngãi, chi phí xây dựng hơn $3 tỉ nhưng liên tiếp phải dừng hoạt động vì trục trặc kỹ thuật. (Hình: Hoang Dinh Nam/AFP/Getty Images)
Nhưng điều quan trọng hơn, báo chí, dư luận “nói hoài, nói mãi” mà qua năm tháng, cũng chẳng thấy có gì thay đổi!
Chỉ riêng từ đầu tháng 8 năm 2012 đến nay, tức là mới hơn hai tuần, ai có theo dõi báo chí thường xuyên đã thấy nổi lên nhiều vụ.
Nào vụ “Nhà máy lọc dầu Dung Quất lại dừng hoạt động” (báo Người Lao Ðộng) để xử lý lỗi kỹ thuật. “Liên quan đến khớp nối giãn nở nhiệt trên đường xả khí CO của phân xưởng RFCC.”
Lần tạm dừng này kéo dài hơn một tuần, từ ngày 8 đến ngày 17 tháng 8.
Cũng theo bài báo, “trước đó, trong hai tháng 5 và 7 vừa rồi, nhà máy lọc dầu Dung Quất cũng đã dừng hoạt động để xử lý các lỗi kỹ thuật.”
Tháng 7 năm 2011, nhà máy cũng đã tạm dừng 2 tháng để tiến hành bảo dưỡng đợt 1 và khắc phục những điểm tồn tại kỹ thuật.
Một công trình được đánh giá là “một trong những dự án kinh tế lớn, trọng điểm quốc gia của Việt Nam trong giai đoạn đầu thế kỷ 21... Ðược khởi công xây dựng từ năm 2005, tổng mức đầu tư là hơn 3 tỉ USD (khoảng 40,000 tỉ đồng)...” (theo trang Wikipedia tiếng Việt)
Nhưng khi đưa vào vận hành chưa được bao lâu thì cứ trục trặc, hoạt động cà giựt, mỗi lần sửa chữa tốn kém cả đống tiền.
Ðó là chưa nói công trình này ngay hồi đầu đã bị quốc tế chỉ trích và tỏ ra nghi ngờ về tính hiệu quả, khả năng kinh tế do được đặt ở một địa điểm không thuận lợi.
Nhưng “với quyết tâm chính trị của đảng và nhà nước” nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế ở tỉnh Quảng Ngãi nói riêng và khu vực miền Trung nói chung, dự án này vẫn được tiến hành. (Làm kinh tế mà lại được xét đoán theo quyết tâm chính trị thì sợ thật!)
Tất nhiên, những người chịu trách nhiệm tiếp tục khẳng định với người dân “sự cố của nhà máy Dung Quất trong tầm kiểm soát” (theo VNMedia).
Cũng trong tháng 8, báo chí đưa tin vụ đường hầm sông Sài Gòn bị nứt, thấm nước.
Bài “Vừa sử dụng, hầm vượt sông Sài Gòn đã thấm, nứt?” trên VTC News viết: “Hầm Thủ Thiêm (TPHCM), một trong những hầm vượt sông lớn và hiện đại nhất khu vực Ðông Nam Á đã xuất hiện những vết trám trét và có dấu hiệu bị thấm nước...”
Ðây là hàng loạt các bài báo khác về vụ này: “Sửa chữa các vết thấm đường hầm sông Sài Gòn” (báo Tuổi Trẻ), “Ðẻ con ‘khuyết tật’ thì phải chăm sóc suốt đời(?!),”báo Lao Ðộng), “Cận cảnh hầm sông Sài Gòn chi chít ‘vết thương’ (báo Dân Trí)...
Công trình này cũng mới được khánh thành long trọng và đưa vào sử dụng vào tháng 11, 2011.
Cũng như vụ nhà máy lọc dầu Dung Quất nói trên và những trường hợp tương tự khác, chủ đầu tư và những người chịu trách nhiệm lại lên tiếng trấn an rằng hiện tượng thấm nước là bình thường, “trong giới hạn cho phép.”
Nhưng những nhà chuyên môn thì bẻ lại “thấm trong giới hạn cho phép” chỉ là cách nói trấn an dư luận. (phát biểu của Thạc sĩ Phạm Sanh, chuyên gia giao thông, báo Dân Trí).
Còn người dân thì tất nhiên chả mấy tin tưởng vào những lời nói nghe... rất quen này.
Ngoài ra còn những thông tin khác như “Cảng quốc tế hơn 36 tỷ đồng bỏ hoang” (báo VNExpress) nói về cảng Phú Hữu ở quận 9, Sài Gòn bị bỏ hoang vì “không có đường dẫn cho container ra vào.”
“Gần 70 tỷ đồng và trạm bơm... Ba Giọt” (Báo Dân Trí) nói về trạm bơm Ba Giọt ở xã Phú Vinh, huyện Ðịnh Quán, tỉnh Ðồng Nai do Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn đầu tư, mới đưa vào vận hành đã liên tục hư hỏng.
“Nhà văn hóa cộng đồng biến thành nơi... nhốt trâu bò!” (báo Tin Tức) nói về việc “tỉnh Ðắk Lắk đã đầu tư trên 60 tỷ đồng để xây dựng 554 nhà văn hóa cộng đồng ở các thôn, buôn, đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ.” Nhưng sau khi xây dựng xong, phần lớn các nhà văn hóa này đều không hoạt động, đóng cửa hoặc để nhốt trâu bò, làm sân đá bóng cho trẻ em. v.v...
Ðó là mới điểm báo sơ sơ trong vòng hai tuần lễ.
Còn vô số vụ lãng phí kinh khủng mà dư luận vẫn còn nhớ, liên quan đến những “công trình cấp quốc gia, công trình trọng điểm, thế kỷ” nhưng mới xây xong, đưa vào hoạt động là xuống cấp rất nhanh hoặc đủ thứ “vấn đề kỹ thuật” xảy ra.
Như vụ cầu cao tốc Sài Gòn-Trung Lương hay đường Láng-Hòa Lạc (đại lộ Thăng Long) bị hỏng, cầu Cần Thơ - cây cầu lớn nhất Ðông Nam Á bị lún, nứt, thủy điện Sông Tranh 2 bị rò rỉ nước do lỗi thiết kế... Hay những “công trình bề thế” chào mừng 1000 năm Thăng Long-Hà Nội.
Tờ Petrotimes hồi đó đã làm một loạt bài về “Những công trình ‘nghìn năm Thăng Long’ bây giờ ra sao?”
Liệt kê từ “Quốc lộ 32 - Cung đường ‘vô địch’ về số lần gia hạn,” “Ðại lộ Thăng Long - Cung đường nghìn tỉ giả vờ khánh thành,” “Công viên trăm tỷ-có cũng như không” (về công viên Hòa Bình, Hà Nội), “Bảo tàng Hà Nội-Công trình ‘điển hình’ cho sự lãng phí,” “Con đường gốm sứ - kỷ lục gia đang kêu cứu”...
Có thể kể một danh sánh dài dằng dặc không biết bao nhiêu công trình kiểu như vậy.
Sự lãng phí diễn ra ở khắp mọi nơi, từ những công trình cấp quốc gia cho đến những công trình cấp tỉnh, huyện, xã... Hoặc do tham nhũng, nạn “rút ruột công trình.” Hoặc do đầu tư không đúng địa điểm, chủ quan quyết mọi chuyện theo nhãn quan chính trị mà không xét đến khía cạnh kinh tế, các yếu tố lợi hại. Hoặc thiếu chiến lược, chính sách phát triển tiếp theo v.v...
Tóm lại, có muôn vàn lý do khác nhau. Nhưng nguyên nhân chính là do lối làm ăn gian dối, thiếu trách nhiệm và nạn tham nhũng nghiêm trọng, có hệ thống, từ trên xuống dưới, trong mọi lĩnh vực, ở đất nước này.
Bao nhiêu tiền của đổ sông đổ bể. Mà đó là tiền thuế mồ hôi nước mắt của người dân.
Trong hàng trăm hàng ngàn vụ việc như vậy chỉ có một số ít được xử lý, một số cá nhân bị cách chức, thuyên chuyển chức vụ hay thậm chí ra tòa. Còn lại cả hệ thống đẻ ra cái cung cách làm ăn tham nhũng ấy vẫn còn nguyên.
Riết rồi người dân cũng đâm ra chán!
Những con số thiệt hại hàng tỷ đô la Mỹ nghe riết rồi quen, xem nhẹ tựa như lông hồng (!).
Ðối với dân đen, một phần do số tiền lớn quá họ không hình dung nổi. Họ còn phải tối mắt tối mũi làm việc quần quật từ sáng sớm đến tối mịt để kiếm từng đồng bạc lẻ.
Lương công nhân, giáo viên, công nhân viên bình thường hay thu nhập của người nông dân, dân nghèo thành thị một tháng trên dưới một vài triệu đồng VN làm sao hình dung được số tiền hàng triệu, hàng tỷ đô la là bao nhiêu.
Thứ hai, ai cũng nghĩ nó như chuyện của chung, chuyện của... ai đó chứ không phải của mình (!).
Từ người dân bị móc túi từng đồng thuế đóng góp cho những cái công trình bị ăn cắp trắng trợn kia cho đến những người chịu trách nhiệm trực tiếp. Và cao hơn nữa, là những người đứng đầu các bộ ngành, đứng đầu đảng và nhà nước.
Họ cũng có ý nghĩ trách nhiệm là... trách nhiệm chung, lãnh đạo tập thể mà, nghĩa là chẳng có cá nhân nào phải chịu trách nhiệm cụ thể cả. Cùng lắm thì “nghiêm khắc kiểm điểm, phê và tự phê” rồi đâu lại vào đó.
Như những con nghiện quen thuốc, nhờn thuốc.
Người Việt Nam cứ tiếp tục sống với những con đường vừa xây xong đã lún, những cây cầu mới khánh thành đã gãy, những đường hầm bị nứt, những sân golf, dự án “đắp mền” bỏ hoang trong lúc dân thiếu đất trồng trọt, canh tác...
Lại giật mình nghĩ đến hàng loạt những dự án, công trình đang triển khai có ảnh hưởng đến hàng triệu, thậm chí hàng chục triệu con người nếu lỡ có sự cố gì xảy ra. Như các công trường khai thác bauxite ở Tây Nguyên hay các nhà máy điện hạt nhân... Ðã và đang được “bảo đảm an toàn bằng mồm” của các quan chức.
Ai cũng biết thừa rằng khi cái cơ chế này vẫn tồn tại, trong đó sự minh bạch hay pháp luật chỉ là trò đùa, những loại quan chức đẻ ra từ chế độ này vẫn còn ngồi đầy ra đó thì nạn tham nhũng, rút ruột công trình, làm ăn gian dối sẽ vẫn còn, chất lượng các công trình sẽ vẫn tệ hại... Và chuyện gì cũng có thể xảy ra!
Nhưng thôi, mọi chuyện đã có “đảng và nhà nước lo,” người dân cũng chả nên lo làm gì!




Hà Tĩnh truy tố dân đánh chủ tịch, đập trụ sở xã




Friday, August 17, 2012 5:30:39 PM


Bài liên quan


HÀ TĨNH (NV) - Nhà cầm quyền tỉnh Hà Tĩnh truy tố hình sự vụ đánh chủ tịch, phó chủ tịch xã Yên Lộc và cả trưởng công an huyện Can Lộc xảy ra cách đây hai ngày.
Trụ sở xã Yên Lộc, huyện Can Lộc, Hà Tĩnh bị người dân đập phá đêm 14 tháng 8, 2012. (Hình: Báo Hà Tĩnh)
Tin báo Lao Ðộng cũng như tờ Dân Trí hôm Thứ Sáu nói rằng, “Công an Hà Tĩnh đã ra quyết định khởi tố vụ án hình sự gây rối trật tự công cộng và bắt giữ người trái pháp luật xảy ra tại xã Yên Lộc, huyện Can Lộc vào đêm 14, rạng ngày 15 tháng 8, 2012.”
Vụ việc có thể dự đoán từ trước nhưng nhà cầm quyền chưa xác định được những ai sẽ bị truy tố khi đập phá trụ sở xã Yên Lộc và uy hiếp, đánh bị thương chủ tịch, phó chủ tịch xã, trưởng công an huyện Can Lộc. Rất có thể hàng chục người khó tránh khỏi tù tội.
Chiều ngày 14 tháng 8, 2012, hàng trăm người dân thuộc xóm Tràng Sơn, xã Yên Lộc kéo đến trụ sở xã đòi thả hai người bị bắt là Ðặng Văn Ðịnh, 33 tuổi và Ðặng Văn Công, 27 tuổi.
Hai người này bị bắt và bị cáo buộc “ủi chiếm phần đất thuộc quản lý của UBND xã.” Việc này xảy ra từ cuối tháng 6 vừa qua khi nhà cầm quyền địa phương buộc chiếc xe xúc do nhóm thanh niên này thuê san sửa lại sân bóng chuyền mà thanh niên của thôn thường sử dụng, không thành công.
Anh em Công, Ðịnh bị bắt, theo nguồn tin Thanh Niên Công Giáo, thân nhân sợ họ có thể chết vì tra tấn trong tay công an nên đến đòi thả. Cùng đi với bà mẹ của Ðịnh và Công là hàng trăm người.
Báo Hà Tĩnh kể rằng, “Hàng trăm đối tượng quá khích kéo đến bao vây trụ sở UBND xã Yên Lộc, gây rối. Các đối tượng la ó, dùng gạch đá, ném vỡ toang hệ thống cửa kính trụ sở ủy ban xã.”
Ðến đêm, vẫn không thấy người được thả thì khoảng 20 thanh niên đã uy hiếp, giam giữ chủ tịch và phó chủ tịch xã. Hai người này bị tấn công, có một số thương tích trên đầu và mặt phải vào bệnh viện chữa trị.
Báo nhà nước thuật lời viên chức địa phương đổ cho người dân là “xúc đào trái phép phần đất ở sân bóng cũ thuộc quản lý của xã Yên Lộc.” Ðặng Văn Công bị cáo buộc trên báo tỉnh Hà Tĩnh là đã “liên tục chửi bới” cũng như “dùng đất đá, gậy gộc tấn công đoàn kiểm tra” khi bị đòi hỏi dừng xe xúc đất sửa sân bóng ngày 29 tháng 6, 2012.
Nhưng trong cuộc phỏng vấn của đài BBC, có nhân chứng nói Công “chưa hề động thủ với quan chức nào,” trái với những điều báo nhà nước viết.
Theo blog Thanh Niên Công Giáo, nguyên ủy vụ việc là sự tranh chấp đất giữa nhà cầm quyền xã và dân chúng. Trong cuộc phỏng vấn của đài RFA, Linh Mục Trần Văn Lợi, chánh xứ Tràng Ðình cho rằng vì nhà cầm quyền xã âm thầm lấy đất sân bóng chuyền của dân nên bị phản ứng.
Nhà cầm quyền xã Yên Lộc vay 5 tỉ đồng của một doanh nghiệp không có tiền trả nên lấy đất sân bóng chuyền của dân vẫn chơi giải trí để gán nợ. UBND xã giấu nhẹm chuyện này nhưng vụ việc lộ ra khi dân chúng tu sửa sân bóng để chơi thì bị doanh nghiệp được nhà cầm quyền bảo kê tới gây sự, cản trở.
Tổ chức Thanh Niên Công Giáo nói dân phản ứng vì cho rằng nhà cầm quyền xã đã “lạm dụng quyền hành của mình để chèn ép, xem thường người dân.”
Tình trạng tham nhũng, lạm quyền của cán bộ đảng viên các cấp công quyền tại Việt Nam vô cùng phổ biến. Ngày 15 tháng 8, 2012, tòa án phúc thẩm ở Sài Gòn xử y án sơ thẩm 7 năm tù cho một ông chủ tịch xã ở huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu vì đã lợi dụng chức vụ quyền hạn để nuốt rất nhiều đất, lấy đất của dân để cấp phát cho thân nhân và các quan chức khác cùng với tội “lập quỹ trái phép.”
Trong cuộc họp của Viện Nghiên Cứu Lập Pháp thuộc Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội CSVN ngày 10 tháng 8, 2012 vừa qua, ông Lê Văn Lân, phó chánh văn phòng “Ban Chỉ Ðạo T.Ư về phòng chống tham nhũng” đã “đánh giá, tình hình tham nhũng tại Việt Nam là nghiêm trọng với những biểu hiện tinh vi, phức tạp. Trước đây, tham nhũng chủ yếu chỉ xảy ra trong lĩnh vực kinh tế, nhưng nay đã lan sang các lĩnh vực vốn được coi trọng về đạo lý, như giáo dục, y tế, thực hiện chính sách xã hội, nhân đạo, từ thiện, phòng chống dịch bệnh,...” tường thuật của báo Thanh Niên.
Tổ chức Minh Bạch Thế Giới xếp hạng Việt Nam thứ 112 về tham nhũng trên tổng số 182 nước được nghiên cứu. Thật ra, nếu người ta biết các hình thức ăn hối lộ, “lại quả,” tổ chức “sân sau” hớt mối thầu ở Việt Nam tinh vi đến đâu, bảng xếp hạng của Minh Bạch Thế Giới có thể phải đưa tên nước Việt Nam xuống cuối bảng. (TN)

Vụ WikiLeaks: Rắc rối chính trị, rắc rối ngoại giao



Saturday, August 18, 2012 3:41:30 PM

Hà Tường Cát/Người Việt (tổng hợp)

LONDON -Chính quyền Ecuador hôm Thứ Năm loan báo quyết định cho ông Julian Assange hưởng quy chế tị nạn.
Cảnh sát Anh đứng gác trước sứ quán Ecuador tại London. (Hình: Dan Kitwood/Getty Images)
Chính phủ Anh Quốc và Thụy Ðiển mạnh mẽ phản đối hành động này, đưa tới tình hình căng thẳng ngoại giao trầm trọng giữa hai nước Bắc Âu với quốc gia Nam Mỹ.
Anh Quốc khẳng định sẽ không để Assange ra khỏi nước Anh. Nhưng ngoại trưởng Ecuador, ông Ricardo Patino, cảnh cáo là Anh “nên tôn trọng quyết định của một nước ngoài,” nếu không “chúng tôi sẽ dùng những phương cách khác, chiếu theo công pháp quốc tế, để yêu cầu Anh phải cho đi”. Ông Paterno giải thích thêm: “Tôi không cho là hợp lý khi một chính phủ ngoại quốc đã quyết định cấp quyền tị nạn chính trị mà một công dân còn bị buộc phải lưu lại một thời gian lâu dài trong sứ quán”.
Julian Assange đã trốn vào tòa đại sứ Ecuador ở London ngày 20 tháng 6. Việc này đã có nguồn gốc từ lâu dài. Tháng 11 năm 2010, thứ trưởng ngoại giao Ecuador là Kintto Lucas đề nghị Assange có thể đến sống tại Ecuador và như vậy “tự do trình bày tất cả những thông tin gì mà ông ta có”. Từ gần hai năm nay, giữa hai bên đã có nhiều tiếp xúc và Ecuador bí mật thương lượng với Anh đề nghị cho Assange ra đi. Về phía Australia, mặc dù Assange là công dân nước này, chính phủ Australia tuyên bố không can thiệp và nói rằng đây là chuyện giữa đương sự với Thụy Ðiển và Anh.
Dư luận cho rằng tổng thống Ecuador, ông Rafael Correa, có quyết định làm lớn chuyện cho Assange tị nạn là nhằm nhu cầu tái tranh cử vào đầu năm tới. Ông muốn chứng tỏ với dư luận rằng mình là người chủ trương dân chủ, bênh vực quyền tự do phát biểu.

Lập luận của Assange và Ecuador

Assange cho rằng việc Thụy Ðiển truy tố ông về vụ tấn công tình dục hai phụ nữ chỉ là cái cớ để che đậy một âm mưu chính trị. Nếu ông bị dẫn độ qua Thụy Ðiển, nước này sau đó sẽ giải giao ông sang Hoa Kỳ để bị truy tố về việc WikiLeaks tiết lộ những hồ sơ mật của Hoa Kỳ và có thể lãnh án tử hình.
Ngoại trưởng Ecuador tán đồng lập luận ấy, cho là “có những yếu tố khác” trong việc Thụy Ðiển muốn dẫn độ Assange và có mối nguy hiểm đến sinh mạng Assange. Ông Paterno nói: “Nếu Assange bị dẫn độ sang Hoa Kỳ, ông ta sẽ không được xét xử công bằng. Ông ta có thể bị xử trước tòa án quân sự hay một tòa án đặc biệt. Cũng không phải là không thể ông ta sẽ bị ngược đãi hay sự đối xử tàn bạo và có thể lãnh án chung thân hay tử hình”. Do đó, theo ông hành động của Ecuador nhằm bảo đảm là người Mỹ, Anh, Thụy Ðiển không đưa Assange đến Hoa Kỳ. Cả ba nước mạnh mẽ gạt bỏ lý luận ấy.
Tỏ bày sự bất bình với việc Ecuador cấp quy chế tỵ nạn cho Assange, Bộ Ngoại Giao Thụy Ðiển cho biết đã triệu đại sứ Ecuador tới để đưa thư phản kháng. Ngoại Trưởng Carl Bildt bác bỏ lập luận của Ngoại Trưởng Paterno và nói rằng “Thụy Ðiển không để Ecuador phải chỉ dạy”. Theo ông, Thụy Ðiển hành động bằng quyền của nước mình để thẩm vấn Assange về tội trạng bị cáo buộc. Ông cũng phủ nhận việc Assange cuối cùng có thể bị đưa sang Hoa Kỳ và đương đầu với án tử hình. Ông cũng nhắc lại rằng Tòa án Nhân quyền Âu Châu không cho phép dẫn độ một nghi can tới một nước có luật phạt tử hình.
Nữ phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ Victoria Nuland tuyên bố không chấp nhận lối giải thích của Assange cũng như sự phụ họa của Ecuador về lập luận ấy. Bà nói: “Tôi hoàn toàn bác bỏ lời tố giác rằng Hoa Kỳ có ý định bức hại ông ta”.
Trong khi đó cơ quan cảnh sát quốc tế Interpol, trụ sở đặt tại Pháp, cho biết tên của Assange vẫn nằm trong danh sách bị truy tầm.
Ngoại Trưởng Anh William Hague tuyên bố “Anh Quốc không có cơ sở pháp lý để cho Assange an toàn đi Nam Mỹ”. Ông minh định rằng Assange bị Thụy Ðiển truy tầm để trả lời những cáo buộc trầm trọng về tấn công tình dục và “việc dẫn độ ông ta không liên hệ gì đến chuyện WikiLeaks hay với Hoa Kỳ”.

Tỵ nạn chính trị hay ngoại giao

Giáo sư công pháp quốc tế Robert Sloane trường đại học Boston cho rằng sự tị nạn mà Ecuador dành cho Assange là ngoại giao hơn là chính trị. Ông giải thích: “Tị nạn chính trị hàm ý là Anh đang bức hại hay đe dọa bức hại ông ta”. Khi dành cho Assange quyền tị nạn ngoại giao, Ecuador để ngỏ cánh cửa cho những thương lượng chính trị. Theo Sloane, loại tị nạn này không viện dẫn một quy chế ngoại giao hay một đặc quyền nào về Assange.
Nhưng Ngoại Trưởng Hague nhấn mạnh rằng Anh Quốc không công nhận ý niệm tỵ nạn ngoại giao, vì đó không phải là một tiêu chuẩn quốc tế để cho hưởng quyền tị nạn.
Các quốc gia ký kết Công ước Quốc tế năm 1951 về Tị nạn, buộc phải xét xem một cá nhân có thật sự bị đe dọa nguy hiểm tính mạng hay thương tật trầm trọng, nếu bị giao cho một cơ quan quyền lực khác hay không. Ðiều 14 của Tuyên Ngôn Quốc tế Nhân Quyền viết: “Mọi người có quyền tị nạn tại nước khác để tránh bị bức hại”. Như vậy bình thường, quyền tị nạn sẽ đưa ra khi một người đến biên giới một quốc gia khác và hy vọng được che chở. Trong trường hợp này Assange đã tìm “tị nạn ngoại giao” vì không tới một nước khác mà chỉ chạy vào một cơ sở ngoại giao.
Công ước liên quan đến Quy Chế Người Tỵ Nạn mà Anh và Ecuador đều đã phê chuẩn nói rằng sự che chở không áp dụng cho những ai phạm tội trầm trọng “không liên quan đến chính trị” ở nước ngoài, trước khi người này đến nước được nhận là tị nạn. Như vậy tội Assange tấn công tình dục ở Thụy Ðiển thuộc loại này.
Khi Thụy Ðiển ban lệnh truy tầm tại Âu Châu, các thẩm phán Anh đã chấp thuận cho Assange đóng bail tại ngoại với những điều kiện ràng buộc chặt chẽ trong lúc vụ án còn đang được xem xét. Chạy vào tòa đại sứ Ecuador ở London là Assange đã vi phạm quy định bail và như thế có thể bị bắt bất cứ lúc nào.

Làm thế nào bắt Assange?

Chiếu công ước Vienna 1961 về Quan hệ Ngoại giao, sứ quán là đất thuộc nước ngoài, cảnh sát và viên chức an ninh không được phép vào nếu chưa có phép đặc biệt của đại sứ. Nhưng hôm 15 tháng 8, Anh đã nhắc nhở Ecuador rằng Bộ Ngoại Giao Anh có quyền thu hồi quy chế ngoại giao của tòa đại sứ theo đạo luật về Cơ sở Ngoại giao năm 1987 nghĩa là cảnh sát có thể vào bắt Assange.
Ðạo luật này do Quốc Hội Anh thông qua năm 1987, 3 năm sau khi xảy ra vụ khủng hoảng nữ cảnh sát Yvonne Fletcher bị chết bằng một phát đạn từ tòa đại sứ Libya ở London bắn ra. Ðạo luật được đưa ra với lập luận “cần sử dụng quyền lực trong những trường hợp đặc biệt như chống lại hành động hỗ trợ khủng bố”. Tuy nhiên việc này có thể tạo tiền lệ nguy hại cho các chính phủ khác trên thế giới biện minh việc lùng bắt những phần tử đối lập chạy trốn vào sứ quán, cáo buộc họ phạm tội hình sự trầm trọng
Do đó với thực tế trong vụ Assange, nếu thu hồi quy chế ngoại giao của sứ quán Ecuador thì việc này phải do tòa án quyết định.
Trường hợp chính phủ Anh sẽ phải viện dẫn lý luận rằng ngoại giao đoàn cần tôn trọng luật pháp và trong bất cứ hoàn cảnh nào không thể xen vào những vấn đề nội bộ của nước sở tại; nhưng cũng chắc chắn Ecuador sẽ phản đối và có thể đưa vấn đề ra tòa án quốc tế và tranh biện pháp lý sẽ còn rất rắc rối.
Nhưng đến nay, cảnh sát Anh có mặt thường trực trước tòa đại sứ và nếu Assange bước ra sẽ bị bắt giữ ngay về tội đã vi phạm điều kiện bail. Cho dù Assange sử dụng xe ngoại giao vẫn có thể bị cảnh sát giữ lại, tuy nhiên sẽ không có quyền lục soát để tìm ông ta. Còn khi tới phi cảng, nếu Assange buộc phải bước ra để lên máy bay thì lúc này nguy cơ bị bắt vẫn xảy đến trở lại. Có người nói rằng nếu đưa Assange vào trong một container, thì cảnh sát Anh không được quyền khám xét vì quy chế “kiện hàng ngoại giao”, tuy vậy có những quy định về kích thước và trọng lượng các văn kiện ngoại giao và không thể giấu Assange như vậy được.
Trong quá khứ, một số những người tị nạn đã ở lại các sứ quán một thời gian rất dài từ hàng tháng đến nhiều năm. Hồng Y Jozsef Mindszenty ở 15 năm trong sứ quán Hoa Kỳ tại Budapest, sau khi Liên Xô đàn áp cuộc nổi dậy Hungary năm 1956, và cuối cùng được thương lượng đi qua Áo.

Phận lưu đày




Cho đến nay, cuộc hành trình về quê hương của dân Do Thái có lẽ là chuyến hành trình dài nhất trong lịch sử của loài người. Gọi là dài nhất bởi vì, một đứa bé vừa chào đời, được mẹ quấn trong tấm khăn lúc rời Ai Cập, đến khi vào được miền đất hứa ở Canaan thì đã tròn 40 tuổi. Nhìn lại mà phát khiếp. Lúc đi ai cũng tưởng chỉ năm ba bữa nửa tháng là cùng, không ngờ những 40 năm! Nếu biết trước chuyến đi dài thế, chắc là có nhiều người chẳng muốn đi nhỉ?
1. Với người Do Thái.
Chẳng nói ra thì ai cũng biết đó là cuộc hành trình có qúa nhiều tang thương, nước mắt. Ra đi là tay trắng, mất nhà, mất của, mất nghiệp. Trên đường đi thì mất người thân, cha mẹ anh em. Đã thế, đời sống vật chất thì trăm bề thiếu thốn. Ấy là chưa kể đến những cuộc chiến vật lộn với cơm ăn, áo mặc hay với nhiều sắc dân trên đường đi. Mà mỗi cuộc chiến là hao xương, tốn máu. Trong cảnh khốn khổ ấy, có bao nhiêu tóan người đã quay về xin làm nô lệ cho người Ai Cập? Có những tên tuổi nào luôn theo phá rối để làm nản lòng dân? Hoặc gỉa, có bao nhiêu kẻ làm ăng ten cho Ai cập? Sách không viết lại, nhưng chắc chắn không thể là con số không? Đau thương nhi? Chuyện của  một ngày về, tiếng là về quê hương, nhưng thực ra là lao thân vào cuộc lưu đày trên sa mạc để trốn chạy kẻ bạo tàn.
2. Phần dân ta thế nào?
Chuyện kể rằng, vào hậu bán thế kỷ 20, nói toạc ra rằng, vào năm 1975, sau ngày gọi là tàn chinh chiến, lớp sóng đỏ như bầy qủy dữ, từ diêm phủ tràn xuống phương nam. Từ đầu đường, xó chợ cho đến các dinh thự. Từ thôn quê cho đến thị thành, hay ở bất cứ nơi đâu có ngọn cờ đỏ phe phẩy bên tấm hình có nắm lông mồm là ở nơi ấy truyền đi bài ca chiến thắng trên những xác người.
Mặt tinh thần còn tang thương hơn. Chúng xô đổ mọi lề luật và phẩm gía con người. Những Tự Do, Công Bằng, Nhân Phẩm, Nhân Quyền, Hạnh Phúc của con người. Những gía trị luân lý đạo đức của xã hội. Những gía trị Nhân Lễ Nghĩa Trí Tín là trật tự của nền Văn Hóa dân tộc, đều bị lớp sóng đỏ vùi dập xuống tận chốn bùn đen. Những niềm tin lành thánh, những bao dung, nhân ái, đạo hạnh của tôn giáo thì bị chúng bôi nhọ, phỉ báng. Chỉ còn trơ lại trên mặt hồ dơ dáy những con lăng quăng nhảy múa tìm sống. Làm cho cả nước rơi vào vòng nô lệ cho kẻ thù truyền kiếp của dân tộc trong tiếng reo hò, hoan lạc của bầy đoàn cờ đỏ không nhân tính:
“Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ…
thờ mao chủ tịch, thờ sit ta lin bất diệt” (Tố Hữu)
Phận người dân nam, trong bối cảnh ấy, dĩ nhiên, là gặp đen đủi. Sự nghiệp Quốc Gia thời tan nát, của từng gia đình là trắng tay. Của thanh thiếu niên là học hành dang dở. Rồi vợ chồng, cha mẹ, anh em, con cháu, dâu rể, ngưòi thân cho đến bạn bè là hát câu ly biệt. Kẻ vào tù, người ngồi khám, bước vào đáy đường tuyệt vọng. Miếng ăn là bo bo, khoai mì, nói chi đến chuyện độc lập, hạnh phúc. Toàn cảnh người dân Nam đều  mang thân phận cá nằm trên thớt hay vướng lưới, mắc câu. Tất cả chỉ còn lại những đôi mắt trắng. Bộ vây, cái đuôi thì thỉnh thoảng đập phạch… phạch trên cái thớt hay vũng nước đỏ!
Chẳng mấy hôm sau, khi nền luân lý của xã hội và tôn giáo bị xô đổ, cộng sản bắt dân đi dưới hàng biểu ngữ, “sống theo gương Hồ đục nước”, xã hội của nước Văn Lang xưa đẹp thế, nay tràn ngập những tội đại ác. Vợ giết chồng. Con đấu tố giết cha mẹ, người tình giết người tình. Làng xóm thân thuộc chém lẫn nhau. Ra đường, vào lớp, tặng cho nhau mũi dao chỉ vì một cái nhìn. Những con cháu của bà Trưng, bà Triệu thì được nhà nước cấp giấy đưa đi phục vụ tình dục trên khắp năm châu. Đã thế, còn bị lột trần truồng ra để chào mời khách làng chơi quốc tế bằng một khẩu hiệu do cháu Triết, một trong những cháu ngoan và là đầy tớ lớn của nhân dân đề ra: “vào đi các ông ở Việt Nam có nhiều gái!”.
Có đủ tủi nhục chưa? Chắc là đã qúa thừa rồi, nên có hàng triệu triệu người, xem ra đã chán sống trên mảng đất cuả quê hương bị cắm cờ đỏ, nên liều ngửa mặt lên mà kêu giời. Giời phần ở xa quá, lại tưởng rằng cái giống dân này nó kêu mình cứu nó, nên không nghe thấy. Nào ngờ, họ gào cho trời xập xuống để chết chung với lũ giặc cho bớt nhục! Nghe đến tội nghiệp.
Cũng trong cảnh bị thất điên, bát đảo vì lũ giặc Hồ, người  dân Việt kêu Trời, Trời không nghe, đành liều mạng phóng mình vào dòng biển xanh. Khi mở mắt ra, họ bắt gặp câu chuyện tưởng rằng trong chốn thiên cung:
-         Thế nào, anh chị, ông bà, thấy khoẻ chưa?
-         Hả, cái gì?
-         Nhà anh chị, ông bà, ở đâu, sao lại đến đây một mình hay đi với ai đây?
-         Khổ lắm các ông ơi. Chồng tôi chúng bắt, cha tôi chúng giết. Nhà tôi chúng cướp…  May mà tôi còn giữ lại được cái quần rách này, nên vội ôm lấy đứa con mà bơi ra biển lớn đấy!
-         Oh God, brave hearts! Còn ông thế nào nhỉ?
-         Tôi đã dẫn cả vợ con, bỏ chạy và trốn chúng từ 20 mươi năm trước rồi. Quê xưa thì không về được. Một hôm ngủ dậy lại thấy nó để đôi dép râu ở trước cửa là thần hồn nát thần tính. Chẳng kịp gọi vợ, chờ con, kêu cháu, liều mạng mà xuống tàu ông ạ.
-          Ơ, em nhỏ, sao thế này hả em? Cha mẹ em đâu, đừng khóc nữa em?
-         Cháu chả biết, khéo mà chết dọc đường rồi!
-         Còn anh, có phải là người lính không?
-         Phải… phải…. Sỹ khả tử, bất khả nhục!
-         Ôi dũng cảm, cực kỳ dũng cảm!
Sau khi nghe toàn bộ câu chuyện buồn của người anh hùng, những người ở bên kia bờ đại dương theo nhau tặng cho những thuyền nhân tấm khăn sạch. Dặn là lau cho khô đi những dòng lệ và đau khổ. Dặn là hãy vui lên, hãy nhìn đến tương lai mà sống. Dặn là hãy giữ lòng sắt son, “đừng nghe những gì Việt cộng nói, mà  hãy nhìn kỹ những gì chúng làm” nhá.  Dặn rằng, hãy nuôi nấng lấy ý chí cho một ngày về. Nghe thế là dân tôi nhẩy cẫng lên mà mừng rỡ. Mừng vì ta còn sống với chí nhớn thì xá gì cái hồ nước đục kia. Có ngày ta rửa cho sạch sẽ!
Trong khi đó, sách sử của dân Do Thái ghi là trên đường về quê thì gặp toàn những tai ương. Hết sắc dân này đuổi đánh đến sắc dân khác ra ngáng đường đòi tiền mãi lộ. Vậy mà họ đi qua được. Phần dân nam ta lại khác. Sau khi vượt biển nhớn thì như là đã vào “nước thiên đàng” vậy. Mà là thiên đàng thật! Lúc đầu là cơm bưng nước rót, rồi sau đó từng nhà, từng người được bảo lãnh đi khắp cả mọi nơi để lập nghiệp. Kế đến, trẻ thơ vào trường học tiếng nước người, học làm người nhân bản. Thanh niên, thiếu nữ khỏe mạnh, có sức, có khả năng thì đi làm, học nghề, học nghiệp. Ông bà gìa lớn tuổi, không thể lao động thì  người ta cấp nhà, cấp tiền cho cuộc sinh sống. Mưa không đến mặt, nắng không đến đầu. Không giàu có như đại gia, nhưng tiền bạc lúc nào cũng ấm túi. Được trợ giúp thế, có lẽ nào không có ngày về trong vinh quang!
Mấy hôm sau, khi tiền bạc đã bắt đầu rủng rỉnh, “tối sam banh, sáng sữa bò”, cuộc sống hết khô khan, người Việt vẫn buồn. Mãi đến khi nhận được tin báo: Thưa ông, thưa bà, thưa em… những người thân như vợ, chồng, con, cha mẹ, anh em của qúy ngài bỏ lại sau lưng khi lao vào dòng biển xanh, đã được chính phủ lo liệu, hoàn tất thủ tục rời Việt Nam. Họ sẽ đến đoàn tụ vơi qúy vị vào ngày tháng….. xin chúc mừng! Thế là ta reo vui. Ôi sung sưóng, đại sung sướng! Sung sướng quên cả cám ơn!
Tôi không biết những ngưòi rời Ai Cập xưa kia có ai gởi tiền, gởi qùa về cho những người không kịp ra đi không nhỉ? Những người ra đi trong khốn khổ kia có lo sợ người thân còn ở lại sẽ bị hành hạ và bị chết đói hay không? Sách không ghi khoản này, nhưng tôi đoán mò là làm gì có đô la Mỹ, Úc, Canada hay Euro… mà gởi về cơ chứ! Chuyện người dân Nam xa xứ thì hoàn toàn khác. Khác đến độ đau thương. Có anh cựu quân nhân than rằng: chẳng có cái khổ nào hơn cái khổ hôm nay. Suốt tuần lo đi cày, cuối tuần thì lo đi kiếm chỗ gởi tiền về cho vợ nuôi con! Người khác chêm vào, chuyện ấy làm gì có đau thương như chuyện sáng đi biểu tình chống Việt cộng, chiều về lại đi gởi tiền về Việt Nam. Gởi mười đồng tiền thật, chúng nuốt trọn mười rồi in ra mớ giấy lộn để trả cho ngưòi nhà của mình. Vậy mà vẫn phải gởi! Sau lời anh nói là những tiếng nghiến răng nghe ken két. Lũ cộng thật khó mà có chỗ dung thân! Chờ xem!
3. Đi trong nước mắt, có về trong hân hoan?   
Vượt lên trên tất cả mọi lao nhọc khốn cùng của 40 năm, người Do Thái đã có được cái đích họ nhắm đến. Về lại quê hương. Ở đó, họ đã có được một hơi thở êm đềm nhất, tuyệt vời nhất và được sống và chết với mảnh đất được gọi là quê hương của mình! Họ có Moises, David, Salomon, uy danh thiên hạ. Về điểm này, xem ra họ may mắn hơn nhiều sắc dân bị lưu đày khác. Cách riêng, hơn hẳn dân ta!
Bởi lẽ, cái mốc 40 năm của người Do Thái xưa, dân Nam ta đã gần bắt kịp rồi. Nhưng ngày về quê hương nghe sao diệu vợi…. Bao giờ mới đến đây? Trước kia, ông gìa năm tư bỏ bắc, trốn cộng sản chạy vào nam, tưởng mươi hôm, vài ba năm rồi trở về làng xưa. Kết qủa, trăm người đi thì có đến 97 người chết tại miền nam. Trong đó, có một số may mắn, trút hơi thở trong ngày còn Tự Do. Một số khác tràn nước mắt, uất hận vì khi lìa đời lại phải nhìn thấy cái đôi dép râu, cái mũ cối phủ kín cuộc đời của chúng úp chụp ngay trước cửa nhà.
Vài ba người khác nhanh chân, phóng mình qua biển nhớn. Chuyến đi vô định, vẫn mơ có ngày về. Kết qủa, nhiều phần là gởi nắm xương tàn nơi xứ lạ, hoặc nằm trong “bình Tiểu”. Như thế, có đi mà không có về? Buồn không? Buồn mà người ta vẫn muốn đi qua biển lớn mới là chuyện bất thường. Bất thường hơn nữa là, người phải trốn chạy kẻ bạo tàn, lại trở thành người lao nhọc, vất vả nơi xứ lạ để nuôi sống kẻ bạo tàn trên quê hương mình để cho chúng thêm tàn bạo! Xem ra người mình có lòng đại lượng, bao dung biết mấy!
Chuyện kể rằng, sau khi mua xe, tậu nhà, vợ chồng, con cái anh em đã đoàn tụ, cuộc sống, dù phải trải qua bằng mồ hôi, nước mắt trong hãng xưởng hay do đuợc cấp dưỡng, dân Nam ta nào có chịu ngồi yên. Phải lo cho ngày “áo gấm về làng” chứ! Chờ mãi, sốt ruột, có người lên hỏi trời. “Trời cưòi thằng bé nó ham chơi”! Giận Trời, họ đến hỏi “tội” người bảo lãnh năm nao. Người bị hỏi ngơ ngác:
-         Té ra các anh các chị, qúy ông bà chưa ai về Nam à?
-         Về à? … về cả rồi, nhưng nào thấy vinh hoa, chỉ thấy màu cờ máu. Chỉ thấy những tủi nhục của toàn dân và uất hận thôi!
-         Lạ nhỉ? Cả ông lính, ông bắc kỳ, em bé mồ côi năm nào đều về rồi hay sao?
-         Tất tần tật. Mười ngưòi đi thì đã 8, 9 người về!
-         Không có vinh quang thật à?
-         Làm gì có!
-         Nếu vậy thì qúy ông bà chẳng nên trách trời, cũng không thể trách chúng tôi không giúp.
-         Sao lại không trách?
-          Quý ông bà thấy đấy. Thời đệ nhất cộng hòa, TT Diệm thiếu 150.000. đôla mà mất sự nghiệp. Và chỉ có 3 triệu bạc VN họ lấy mạng của ông ta. Thời Đệ nhị Cộng Hòa, Việt Nam chỉ thiếu có 5, 7 trăm ngàn đô la tiền viện trợ, chính quyền sụp đổ, các ông thành dân mất nước. Nay ông bà xem, hàng năm các ông, qúy bà chuyển về, hoặc gánh về Việt Nam hàng tỷ, tỷ đôla. Đã thế, trên các chuyến bay từ Úc, Mỹ, Âu Châu, Canada về Việt Nam thì chật ních người Việt và đầy những hàng hóa ngoại. Các ông đem quần bò, váy ngắn, hàng hiệu về có khác chi “áo gấm về làng”. Tuy không biển lọng vua ban, nhưng xe hơi, tầu bay đưa đón, xem ra việc “vinh quy bái tổ” xưa không bằng! Nói ra thì bảo là lắm nhời. Chính dân tôi đây nom thấy cũng phải ghen tức, vì chẳng có mấy người có đủ tiền bạc để mà holiday thay đi chợ như thế…
-         …. Ơ hay….
-         Nếu các ông, các bà không viện trợ cho bọn gian ác ấy hàng tỷ tỷ đôla hàng năm thì chúng đã chết nhăn răng ra từ cuối thế kỷ trước rồi, cần chi phải đến hôm nay!
-         Ông nhầm rồi, chúng sống là do cướp của và giết người dân tôi đấy.
-         Thì cứ tin là do chúng cướp của giết người, tham nhũng mà có. Vậy hàng tỷ tỷ đôla của các ông bà gởi về nó ở đâu trong lúc người nhà ông vẫn khổ, dân Nam vẫn khốn cùng? Xem ra, các ông thương…. cộng hơn thương dân mình. Trời cũng cũng chẳng cứu được, nói chi đến con người!
-         … không còn cách nào khác à?
-          Có. Có một cách đây. Nếu trên những chuyến bay từ Mỹ, Âu châu, Úc Châu vào Việt Nam, trên đó không có bất cứ người Việt Nam nào “về” Việt Nam. Và cũng chẳng có một đồng bạc nào gởi qua các lỗ đen, hay gởi qua ngân hàng chuyền về Việt Nam thì tôi dám cá cược cái… Tòa Nhà Trắng với ông rằng, chẳng cần tới 5 năm, chúng sẽ dẫy đành đạch trên thớt. Khi ấy ông tha hồ mà lóc vẩy chúng ra!
-         Ngoài ra…
-        Thì ông bằng lòng vậy! Cứ cúi mặt xuống mà đi!
© Bảo Giang
© Đàn Chim Việt

Sau 37 năm về VN nghe và thấy gì ở miền Nam dưới chế độ Cộng sản-



Tôi về Việt Nam đã nghe và thấy gì ở miền Nam sau 37 năm dưới chế độ Cộng sản

Lời người viết: Đây không phải là một phóng sự hay một bài nghiên cứu xã hội với những phương pháp khoa học của nó – mà chỉ là những điều vụn vặt mắt thấy tận nơi, tai nghe tận chỗ – ghi lại môt cách trung thực.
Tôi thấy bộ mặt Sài gòn đổi mới với: Những khách sạn 5 sao, 4 sao lộng lẫy. Đổi mới với những nhà hàng “ vĩ đại “ trên các tuyến đường du lịch. Với những trung tâm “thư giản” sang trọng, quý phái cở câu lạc bộ Lan Anh. Với những vũ trường cực kỳ tráng lệ như vũ trường New Century Hà nội. Với những trường Trung học tư thục mang tên Mỹ, giáo sư Mỹ, chương trình học của Mỹ, giảng dạy bằng tiếng Mỹ- học sinh phải trả học phí bằng tiền Mỹ – 1,000 – 1,500 US$ /tháng. (Giai cấp nào đủ sức trả học phí nầy cho con? )
Tôi cũng hiểu rằng các nơi nầy là nơi ăn chơi của vương tôn công tử “đỏ”, các nhà giàu mới – thân nhân các quyền lực đỏ đứng đàng sau, các quan chức đỏ đô la đầy túi. Họ đến đây để “thư giản”, uống rượu, đánh bạc, cá độ và tìm gái. Uống chơi vài chai rượu ngoại VSOP, XO là chuyện thường. Mỗi đêm có thể tiêu hàng ngàn đô la Mỹ cũng không phải là điều lạ. Trong khi lương tháng của một thầy giáo Trung học trường công không đủ để trả một chai rượu XO, vụ cá độ hàng triệu đô la đã bị phanh phui là một thí dụ cụ thể. Vũ trường New Century bị Công an đến giải tán vì các công tử và tiểu thư con các quan chức lớn nhảy đã rồi… “ lắc” suốt đêm.
Để vài hôm sau – đâu lại cũng vào đó…
Tôi cũng thấy Sài gòn- người, xe và phố xá dầy đặc, nghẹt thở – vài tòa cao ốc mọc lên vô trật tự – ở xa xa, có cái trông giống như chiếc hộp quẹt, nhà cửa mặt tiền hầu hết đều lên lầu nhiều tầng. Kiến trúc hiện đại. Vật liệu nhập cảng đắc tiền. Nhà trong hẻm – phần lớn cũng lên nhiều tầng cao nghệu. Có nhiều khu xây cất bừa bãi, nhô ra thụt vào như những chiếc răng lòi sĩ vô duyên, lấn chiếm ngang ngược đất công hoặc lề đường…
Tôi thấy Sài gòn bị ô nhiểm trầm trọng với hằng triệu tiếng động cơ, ngày đêm đinh tai nhức óc và 5.000.000 chiếc Honda – phun khói mịt mù – chưa kể đến xe hơi ???
Và hệ thống cống rảnh lạc hậu, mỗi khi trời mưa lớn – nước rút không kịp, ứ đọng tràn ngập nhà cửa. Hệ thống đổ rác còn lạc hậu không đáp ứng nổi nhu cầu thải rác của 10.000.000 dân nhung nhúc như kiến. Sài gòn đầy dẫy những hàng ngoại do công ty ngoại quốc sản xuất tại chỗ, hàng lậu của Trung quốc tràn vào vô số kể. Máu kinh tế Việt Nam bị loảng ra. Nhưng chế độ xã nghĩa im thin thít chịu trận, không dám một lời phản kháng. Một chiếc xe Honda nhãn hiệu Trung quốc giá khoản chừng 1,200 đô la, chưa kể hàng Trung quốc lậu thuế, rẻ mạt. Thuốc lá và bia – bia nội, bia ngoại – có đủ. Nhậu và hút là 2 cái mốt bình dân thời thượng nhứt ở Sài gòn. Đảng viên, cán bộ – giai cấp thống trị -”Nhậu”. Già nhậu, trẻ nhậu… con nít cũng tập tành nhậu. Hút thì khỏi nói. Giai cấp cán bộ răng đen mã tấu bây giờ là giai cấp nắm quyền thống trị – đã lột xác – không còn quấn thuốc rê, bập bập phà khói mịt mù nữa – mà lúc nào cũng lấp ló một gói 3 con 5, Craven A, trong túi. Lãnh đạo hút, cán bộ hút, dân chúng hút – thậm chí con nít 9, 10 tuổi ở đồng quê cũng phì phà điếu thuốc một cách khoái trá. Các hảng bia và thuốc lá ngoại quốc đã tìm được một thị trường tiêu thụ béo bở. Cán bộ lớn cũng âu phục cà vạt hẳn hoi, xe hơi bóng loáng, nhưng bộ răng hô, mái tóc bạc thếch, và nước da mông mốc, cũng không dấu được nét thô kệch của một anh nhà quê mới lên Tỉnh. Tôi còn thấy Sài gòn với hiện tượng “tiếm công vi tư” lộng hành, ngang ngược của Công an đến độ dân chúng quen thuộc, xem là một chuyện đương nhiên như chuyện hối lộ đã trở thành cái lệ bất thành văn trong chế độ xã nghĩa. Chiếm đoạt một nửa công viên, xây nhà gạch dùng làm quán cà phê. Chưa thỏa mãn – ban đêm còn dọn thêm bàn ghế trên sân cỏ của phần công viên còn lại và thắp đèn màu trên mấy chậu kiểng cho thêm thơ mộng. Ông chủ bự nầy chắc chắc không phải là dân thường. Ông lớn nầy xem công viên như đất nhà của ông vậy. Ai có dịp đi ngang qua mũi tàu – nơi gặp gở của 2 đường Nguyễn Trải và Lê Lai cũ, ngang hông nhà thờ Huyện Sĩ – thì rõ.
Còn nhiều, rất nhiều chuyện lộng hành chiếm đất công, lấn lề đường nhan nhãn ở khắp Sai gòn. Chỉ đưa ra vài thí dụ cụ thể: Một công thự tại vườn Tao đàn (có lẽ là nhà cấp cho viên Giám đốc Công viên Tao đàn) – mặt tiền ngó vào trong – mặt hậu nhìn ra phía đường Nguyễn Du (Taberd cũ) – bên có màn trổ cửa mặt sau nhà, xây thêm phía sau thành 2 căn phố thương mãi mặt tiền ngó ra đường Nguyễn Du, trị giá mỗi căn, nhiều trăm ngàn mỹ kim – ngon ơ ! Tương tự như vậy – ở góc đường Thành Thái và Cộng Hoà cũ, trước sân nhà của ông Hiệu Trưởng trường Quốc gia Sư Phạm trước 75 – phố thương mãi, quán xá la liệt chiếm mất mặt tiền. Ngang ngược và lộng hành nhứt là 2 căn phố thương mãi bên hông trường Trương minh Ký, đường Trần hưng Đạo, chễm chệ xây lên ngay bên góc phải sân trường như thách đố dân chúng. Còn trên lề đường khá rộng trước câu lạc bộ CSS cũ, bây giờ là câu lạc bộ Lao động – nhiều gian hàng thương mãi bán quần áo, giày vớ thể thao, buôn bán ầm ỉ, náo nhiệt suốt ngày. Công an chiếm đất công, xây nhà tư. Công viên, lề đường trước nhà dân là đất riêng của Công An. Công an sử dụng làm chỗ gửi xe, bịt kín cả lối đi vào nhà. Không ai dám hó hé. Im lặng là an toàn. Thưa gửi là dại dột. Mà thưa với ai? Tất nhiên là phải thưa với công an. Không lẽ công an xử công an? Tướng CS Trần Độ phản ảnh còn rõ rệt hơn : “Xã hội Việt Nam ngày nay là một xã hội vô pháp luật mà phần đầu tiên gây ra là Đảng. Không thể nào chống tham nhũng được vì nếu Đảng chống tham nhũng thì Đảng chống lại Đảng sao? “ (Nhật ký “Rồng Rắn” của Trần Độ). Nón cối, nón tai bèo, dép râu, áo chemise xùng xình bỏ ngoài chiếc quần màu cứt ngựa của người cán bộ CS ngơ ngác khi mới vào Sài gòn – đã biến mất. Cũng không còn thấy những chiếc áo dài tha thướt của những cô gái đi dạo phố ngày cuối tuần trên các đại lộ Lê Lợi, Lê thánh Tôn, Tự do những ngày trước 75 nữa. Thay vào đó là một đội ngũ phụ nữ – mũi và miệng bịt kín bằng “khẩu trang”, găng tay dài đến cùi chỏ, cỡi Honda chạy như bay trên đường phố.
Tôi còn thấy những người nghèo khổ chở trên chiếc xe thồ, những thùng carton và bao túi ny lông, chồng chất lên nhau cao ngất như sắp đổ xuống… Những bà cụ già, những cậu bé tuổi đáng được ngồi ở ghế nhà trường, những anh phế binh cụt tay, cụt chân, lê lết trên một miếng ván gổ … đi bán vé số (một cách ăn xin trá hình).
Bộ mặt Sài gòn “đổi mới” bằng những khách sạn lộng lẫy, những câu lạc bộ thời thượng, những phố xá thương mãi sang trọng, những hiệu kim hoàn lóng lánh kim cương, những nhà hàng ăn vĩ đại, những vũ trường cực kỳ tráng lệ, những biệt thự đồ sộ nguy nga mới xây bằng vật liệu ngoại đắt tiền, trang trí cây cảnh như một mảng vườn Thượng uyển của vua chúa ngày xưa, những xe hơi bóng loáng nhởn nhơ trên đường phố – Nhiều người chóa mắt. choáng váng, cho là “Việt Nam bây giờ tiến bộ quá”. Riêng Phó thường dân tôi tự nghĩ : Như vậy có phải là tiến bộ không ? Sự tiến bộ của một nước cần phải nhìn về nhiều mặt : Mặt y tế và giáo dục, mặt đời sống vật chất và tinh thần của dân chúng. Lợi tức đầu người của Việt Nam – theo thống kê của báo The Economist – bằng: 800 US$ năm 2011 (Hà Nội bốc lên 1,000 US$, chỉ hơn Lào và Cambodia chút đỉnh. So với các nước láng giềng: Thái Lan: 3.500 US$ – Phi luật Tân: 2.000 US$ – Nam Dương: 1.160.US$. Tân gia Ba 30.000 US$. (The Economist World, năm 2011 – p. 158, 176, 238) – Việt Nam còn lẹt đẹt đàng sau rất xa. Và trước bộ mặt thay đổi choáng ngợp nầy – nếu đặt câu hỏi: Ai là chủ nhân của những xe hơi, khách sạn- vũ trường, những thương hiệu lớn, những biệt thự lộng lẫy kia? – Thì câu trả lời không sợ sai lầm là của cán bộ đảng viên (tại chức hoặc giải ngủ) hoặc con cháu thân nhân của họ. Và ở thôn quê – Giai cấp giàu có bây giờ là ai ? Giai cấp địa chủ là ai ? Có phải do của cải của ông cha để lại hay do sự kinh doanh tự do, mua bán làm ăn mà có ???
Hiện tượng người Bắc XHCN chiếm hữu toàn bộ phố xá thương mại quan trọng ở Sài gòn, khống chế mọi lãnh vực trọng yếu ở miền Nam
Cho dù núp dưới cái hào quang chiến thắng “đánh Tây, đuổi Mỹ” – cho dù che giấu, lấp liếm, giải thích thế nào chăng nữa – Thì dân miền Nam (gồm cả Nam lẫn Bắc theo chế độ Tự Do) vẫn thấy một sự thật. Sự thật đó là người Bắc XHCN tràn ngập, chiếm hữu toàn bộ phố xá thương mãi trọng yếu của Sài gòn. Làm sao nói khác được khi đi một vòng quanh Sài gòn và các khu phố sầm uất nhứt, vào những hiệu buôn lớn để mua hàng hay hỏi han chuyện trò thì thấy toàn là người Bắc Cộng sản – Từ cô bán hàng đến bà chủ ngồi phía trong cũng toàn là người của xã hội chủ nghĩa miền Bắc. Các tiệm buôn lớn trước 75- như các tiệm vàng Nguyễn thế Tài, Nguyễn thế Năng, Pharmacie Trang Hai, tiệm Émile Bodin của bầu Yên, nhà hàng Bồng Lai, Thanh Thế, Nguyễn văn Đắc, Phạm thị Trước. Hiện nay, một số đã đổi bảng hiệu hoặc xây cât lại nhưng đều do người miền Bắc XHCN làm chủ. Các cơ sở khác như nhà hàng ăn lớn, tiệm phở, công ty thương nghiệp, dịch vụ lớn, những tiệm buôn bán đồ nhập cảng v. v. cũng đều do người Bắc XHCN chiếm giữ. Tuy không có con số thống kê chính xác nhưng tự mình đi đếm hàng trăm tiệm buôn sang trọng quanh các khu phố lớn ở Sài gòn thì khám phá ra được chủ nhân là người Bắc XHCN (Tất nhiên là vợ con, thân nhân cán bộ lớn). Những gái Bắc XHCN bán hàng là con cháu của chủ nhân người Bắc CS (do các cô tự nói ra). Các cô chiêu đãi viên trên phi cơ VNHK đều là người Bắc thân nhân hay con cháu cán bộ – dĩ nhiên – vẻ mặt lạnh lùng, hách dịch với người Việt Nam và khúm núm lịch sự với khách ngoại quốc. Cán bộ, công nhân viên trọng yếu – Cũng đều là người Bắc – Trừ một số cán bộ gốc miền Nam ra Bắc tập kết – theo đoàn quân viễn chinh vào đánh chiếm miền Nam – Thì cũng kể họ là người XHCN miền Bắc cả. Hệ thống quyền lực từ trên đến dưới – Từ Trung ương đến địa phương – Từ Tỉnh thành đến quận lỵ, thị trấn, làng xã gần – đều do đảng viên người miền Bắc XHCN – nắm giữ. Những công Ty dịch vụ có tầm cở, những công Ty thương mãi sản xuất lớn – điển hình là một công Ty vận tải và du lịch có đến 10,000 xe hơi đủ loại, chủ nhân cũng là người Bắc XHCN. Từ chính trị đến văn hóa, từ giáo dục đến truyền thông, từ nhà cầm quyền cai trị đến chủ nhân cơ sở thương mãi, sản xuất – Cũng là do người miền Bắc XHCN nắm giữ. Đó là sự thật trước mắt ai cũng thấy. Còn những vàng bạc, kim cương, đô la, tài sản tịch thu, chiếm đoạt được trong các cuộc đánh tư sản, cải tạo công thuơng nghiệp – nhà cửa của tù cải tạo, của dân bị đuổi đi kinh tế mới, những tấn vàng của VNCH để lại, những luợng vàng thu được từ những người vuợt biên bán chánh thức – tài sản những người thuộc diện tư sản – toàn bộ tài sản nầy từ Sài gòn đến các Tỉnh miền Trung, miền Nam – được đem đi đâu? – Không ai biết. Thông thường – những của cãi nầy phải được sung vào công quỹ – để làm việc công ích như các ông cộng sản thường rêu rao bằng những mỹ từ đẹp đẻ. Thế nhưng – sự thật trước nhứt – là các ông đem chia chác nhau. Chia nhau một cách hợp hiến và hợp pháp theo Luật pháp XHCN (Đọc Đất đai-Nguồn sống và Hiểm Họa của Tiến sĩ Nguyễn thanh Giang). Ông lớn lấy tài sản lớn. Ông nhỏ – nhà cửa nhỏ. Có ông cán bộ trung cấp chiếm hữu đến 4, 5 căn nhà. Ở không hết… đem cho công Ty ngoại quốc thuê. Điều phổ biến nhứt là các ông cán bộ nầy – vì lo sợ cái gì đó – bèn đem “ bán non” những căn nhà đó lấy tiền bỏ túi trước. Một căn nhà của một viên chức tù cải tạo đã sang tay đến 3 đời chủ. Nhà cửa thuộc diện tù cải tạo là dứt khoát phải tịch thu – không ngoại lệ. Những trường hợp con ruột có hộ khẩu chánh thức còn được phép ở lại – là những biện pháp vá víu. Chủ quyền căn nhà nầy là Nhà nước XHCN. Không chỉ có những người thuộc diện cải tạo công thương nghiệp, tù cải tạo, vượt biên mà người dân thường có nhà cửa phố xá đều bị “ giải phóng” ra khỏi nhà bằng nhiều chánh sách: Đuổi đi kinh tế mới, dụ vào hợp tác xã tiểu công nghiệp, mượn nhà làm trụ sở, cho cán bộ vào ở chung (chủ nhà chịu không nổi… phải bỏ đi), đổi tiền để vô sản hoá người dân, khiến họ bắt buộc phải bán tất cả những gì có thể bán để mua gạo ăn, cuối cùng chịu không nổi, phải bán nhà với giá rẻ bỏ, để vô hẻm ở, ra ngoại ô hoặc về quê… Cán bộ hoặc thân nhân cán bộ miền Bắc XHCN tràn vào “mua” nhà Saigòn với giá gần như cho không… và bây giờ là chủ những căn nhà mặt tiền ở Sài gòn. Mang xe tăng T. 54, cà nông Liên xô, AK Trung cộng, đẩy hàng hàng lớp lớp thiếu niên “xẻ dọc Trường Sơn” bằng máu, nước mắt và xác chết… vào xâm chiếm miền Nam. Chiêu bài là “giải phóng” nhân dân miền Nam – nhưng sự thật khó chối cãi được – là vào để chiếm đoạt tài sản, đất đai, của cải, đuổi dân Sài gòn (gồm cả người Nam lẫn Bắc theo chế độ Tự Do) ra khỏi Thủ Đô bằng nhiều chánh sách khác nhau – để bây giờ chính các ông đã trở thành những nhà tư bản đỏ triệu phú, tỉ phú đô la, vàng bạc kim cương đầy túi – những ông chủ công Ty có tầm vóc, những địa chủ đầy quyền lực. Trương mục ở nước ngoài đầy nhóc đô la. Con cái du học ngoại quốc. (Trường hợp con Thủ Tướng CS Nguyễn tấn Dũng đang du học Mỹ là trường hợp điển hình).
Như vậy hành vi nầy gọi là gì? Trong những lúc canh tàn rượu tỉnh – một mình đối diện với luơng tâm thuần luơng của mình – các ông tự gọi mình đi. Đến thời “mở cửa” – cơ hội hốt tiền còn nhiều hơn gấp bội. Tư bản ngoại quốc ồ ạt đầu tư, khai thác dầu khí, thâu đô la Việt kiều về thăm quê hương – đô la khách du lịch ngoại quốc, bán đất cho Công Ty ngoại quốc xây cất cơ xưởng, cấp giấy phép các công Ty ngoại quốc, các dịch vụ đấu thầu xây cất cầu cống, làm đuờng xá, xây cất đại công tác. Những món nợ kếch xù từ Ngân hàng thế giới, từ quỷ tiền tệ quốc tế – những món nợ trả đến mấy đời con cháu cũng chưa dứt. Những đại công tác nầy mặc sức mà ăn, no bóc ké. Nhiều công trình vừa xây cất xong đã muốn sụp xuống vì nạn ăn bớt vật liệu. Một thí dụ diển hình: Một bệnh viện gần chợ “cua” Long Hồ – quê hương của Phạm Hùng – nước vôi còn chưa ráo đã muốn sụp. Hiện đóng cửa không sử dụng được. Hiện tượng người Bắc XHCN khống chế toàn bộ, làm chủ nhân ông mọi lãnh vực, chiếm hữu nhà cửa, phố xá thương mãi ở những khu thương mãi quan trọng nhứt – là một sự thật không thể chối bỏ. Cán bộ lớn đã trở thành những nhà tài phiệt đầy quyền lực – những ông chủ lớn giàu có nhứt lịch sử. Trong khi dân chúng miền quê – nhứt là miền Nam – ngày càng nghèo khổ, thất nghiệp kinh niên. Khoảng cách giàu nghèo càng lớn – đời sống cán bộ và dân chúng càng ngày cách biệt. Giàu thì giàu quá sức. Nghèo thì nghèo cùng cực. Nhà văn – bác sĩ Hoàng Chính – gọi thời kỳ sau 75 là thời “Bắc thuộc”: – “Năm Bắc thuộc thứ 2: Lưu vong tại quê nhà trong cái đói lạnh. – Năm Bắc thuộc thứ 6: Cầu cho em nhỏ 10 tuổi đầu đủ cơm ăn giữa bầy thú hát điên cuồng chuyện thù oán. – Năm Bắc thuộc thứ 12: Trong ngục thất quê hương ấy, có những bộ xương thôi tập khóc cười. “ Miền Bắc XHCN đem quân xâm chiếm miền Nam để khống chế nơi đó bằng sự đô hộ hà khắc và tinh vi.
Bộ mặt của thôn quê miền Nam
Có nhìn tận mắt, nghe tận nơi, mới hình dung được khuôn mặt miền Nam sau 37 năm dưới chế độ cọng sản. Để được trung thực – người viết ghi những điều thấy và nghe – không bình luận – tại những nơi đã đi qua. Thôn quê miền Nam – những làng xóm gần tỉnh lỵ quận lỵ đã có điện. Những làng xã xa xôi hẻo lánh vẫn còn sống trong sự tăm tối. Đường sá có tu sửa phần nào. Đường mòn đi sâu vào thôn xóm được lót bằng những tấm dalle lớn (đường xóm Cái Nứa, Cái Chuối xã Long Mỹ, VL), xe Honda và xe đạp chạy qua được. “Cầu tre lắt lẻo”, cầu khỉ được thay thế bằng cầu ván, cầu đúc (vật liệu nhẹ). Cầu tiêu công cộng trên sông các chợ quận (Cái bè, Cái răng) nay không còn thấy nữa. Nhà cửa dọc theo bờ sông Cần Thơ – chen vào những nhà gạch ngói, nhà tôn – còn nhiều nhà lá nghèo nàn. Tương tự như vậy – dọc theo bờ sông Long Hồ – một số nhà gạch nhỏ mới cất. xen kẻ những mái lá bạc màu. Vùng Trà ốp, Trà Cú (Vĩnh Bình), chợ Thầy Phó (Vĩnh Long) nhiều nhà gạch mới xây nhưng vẫn không thiếu nhà lá, nhà tôn. Đường mòn chạy sâu vào thôn xóm vẫn còn đường đất lầy lội vào mùa mưa nước nổi. Hai bên đường xe chạy từ Mỹ Tho, Cao Lãnh, Châu Đốc, Hà Tiên, Rạch Giá, Cần Thơ. Nhìn chung – có một sự thay đổi rõ rệt. Nhà cửa, hàng quán dầy đặc, động cơ ồn ào, người ta chen chúc. Cảm giác chung là ngột ngạt, khó thở. Những vườn cây xanh um bên đường đã biến mất hoặc thụt sâu vào trong, không còn thấy nữa. Không còn vẻ đẹp thiên nhiên ngày nào của vườn xoài cát sai oằn, mát mắt vùng Cái Bè, An Hữu, vườn mận Hồng Đào chạy dài hàng mấy cây số ở Trung Lương. Dưới sông – từ kinh Vỉnh Tế chảy dài ra sông Tiền Giang – hai bên bờ toàn là nhà sàn, phía sau chống đở sơ sài bằng những trụ cây tràm. Mỗi nhà hoặc 2, 3 nhà đều có cầu tiêu tiểu bắc phía sau. Tắm rửa giặt giũ, múc nước lên uống, phóng uế – cũng cùng trên một dòng sông. Không có gì thay đổi. Làng Chàm còn gọi là chà Châu Giang cũng còn đó. Cũng nghèo như trước. Những chiếc ghe vừa dùng làm nhà ở, vừa là hồ nuôi cá Basa, cá điêu hồng v. v. ở dọc bờ sông khá dài. Dường như ngành nầy hoạt động khá mạnh. Dọc trên những nhánh phụ lưu của 2 con sông Tìền và sông Hậu – người ta không còn thấy bóng dáng của những cô gái thướt tha trong chiếc áo bà ba và chiếc quần lãnh Mỹ A, chèo ghe tam bản, bơi xuồng như thời trước 75 nữa. Hỏi một ông già tên Ph. tại Cái Răng, được trả lời: “ Đi lấy Đại Hàn, Đài Loan hết rồi ông ơi! “ Tôi hỏi thêm: “ Các cô gái có nghe nhiều người bị gạt bán vào ổ mãi dâm, nhiều cô gái bị chồng bắt làm lao động khổ sai, bị ngược đãi, đánh đập. các cô gái nầy không sợ sao ông? – “ Biết hết – mấy cổ biết hết, báo Tuổi trẻ đăng hàng ngày. Nhưng cũng có những cô có chồng Đại Hàn, cho tiền cha mẹ xây nhà gạch. Cô khác thấy vậy ham. Phần nghèo, phần không có việc làm kinh niên. Họ liều đó ông, biết đâu gặp may.
“Câu chuyện gái Việt lấy chồng Đại Hàn, Đài Loan hiện không ai là không biết. Tờ Tuổi trẻ – số ra ngày mùng 1 Tết năm Đinh Hợi – trong bài: “ Nỗi đau từ những con số”- có nói đến số phận của 65.000 phụ nữ đang làm vợ những ông chồng Đài Loan già, tàn tật đui mù, làm vợ tập thể cho cả gia đình cha lẫn con. Cũng do tờ báo nầy: “Tại một tổ chức kết hôn lậu, hàng chục cô gái đang “bày hàng” để 2 ông Hàn quốc tuyển chọn làm vợ và 118 cô gái khác đang nằm, ngồi, lố nhố chờ đến luợt mình “ Và cũng do tờ Tuổi Trẻ số phát hành ngày 25-04-2007, viết: “Hơn 60 cô gái, tuổi từ 18 đến 20 từ miền Tây Nam bộ lên Sài gòn để dự tuyển. Các chàng rể Hàn Quốc được quyền soi xem kỷ, chú ý đến cả từng vết thẹo trên thân thể cô gái.Dich vụ môi giới hôn nhân lậu có chiều hướng gia tăng. Chỉ trong vòng nửa tháng mà Công An đã phát hiện 3 vụ môi giới hôn nhân trái phép ở quận 6, 10 và Tân Bình với gần 400 lượt cô gái hiện diện. Thậm chí – những cô gái được xe ôm chở tới địa điểm dồn dập gây náo loạn cả xóm”. Người viết có lần lang thang trên đường Nguyễn tri Phương tìm quán ăn cơm trưa, có chứng kiến tại chỗ: Từng cặp trai gái lố nhố xếp hàng đôi trước cửa một trường học, để lần luợt vào trong. Hỏi một người trung niên lái xe Honda ôm, được anh trả lời: ‘ “Đó là những người con gái đi lấy chồng Đài Loan và Đại Hàn. Hàng bên trong là những đang làm thủ tục xuất ngoại theo chồng. Hàng bên ngoài là những người đang vào ký giấy hôn thú sau khi đã qua các cửa ải môi giới và thủ tục tuyển lựa”. Tôi nhìn kỷ các cô gái nầy tuổi rất trẻ khoản chừng 18 đến 20, đứng cặp với những anh Tàu già sồn sồn- có một người tàn tật. Không thấy có thanh niên trẻ. Nhìn cách ăn mặc và nghe họ nói chuyện – tôi đoán chừng họ đến từ miền Tây Nam Bộ. Đây là tổ chức môi giới chánh thức có giấy phép hành nghề. Song song với tổ chức chánh thức, còn có một tổ chức “ môi giới hôn nhân lậu”- sự thật là một tổ chức buôn người, chuyên đi dụ dỗ trẻ em và gái, nói gạt là đi bán hàng hay đi làm việc tại các cơ xưởng ngoại quốc nhưng là để bán thẳng vào các ổ mãi dâm ở Kampuchia, Thái Lan, Ma Cau để nơi đây huấn luyện trẻ em làm nô lệ tình dục, các cô gái làm điếm, hoặc bán cho người Tàu bỏ tiền ra mua nô lệ. Tất nhiên là phải có sự tiếp tay che chở ăn chia của Công An. Nói là lậu nhưng thật ra là nhan nhãn xảy ra hằng tuần – thậm chí hằng ngày trước mặt dân chúng tại các quận Bình Thạnh, quận 11, Sàigòn. Cho dù chánh thức hay lậu, hậu quả cũng gần giống nhau. Chánh thức thì có giấy phép, có công an làm thủ tục, chánh phủ thu tiền lệ phí. Lậu thì lén lút với sự che chở của Công An. Hậu quả gần giống nhau. Nhiều cô gái về làm vợ mấy tên Đài Loan, Đại Hàn bị ngược đãi, đánh đập tàn nhẫn – ban ngày làm nô dịch, ban đêm phục vụ tình dục rồi bán vào động mãi dâm lấy tiền gở vốn lại. (Trại cứu giúp nạn nhân của cha Hùng ở Đài Bắc là một bằng chứng) Còn lậu thì bán thẳng vào ổ điếm.
Biết bao nhiêu thảm cảnh, biết bao nhiêu bi kịch thương tâm làm rúng động lương tâm nhân loại. Cựu Quốc Trưởng Sihanouk không giấu được nỗi xót xa trước thảm cảnh người phụ nữ Miên làm vợ mấy thằng Tàu, lên tiếng kêu gọi họ trở về nước. Không thấy Việt Nam nói nửa lời! Những cô gái nầy có biết những thảm kịch đau thương, những sự hành hạ, ngược đãi, đánh đập. nầy khi lấy chồng Đài Loan, Đại Hàn không? Có bị cưỡng bức, bị dụ dỗ hay tự nguyện? Cha mẹ có đồng ý hay cản trở? Nguyên nhân nào đã thúc đẩy họ dấn thân vào con đường hiểm nguy, tương lai mù mịt? Trừ những trường hợp bị dụ dỗ qua đường dây buôn người – những người con gái này thật sự là họ TỰ NGUYỆN. Họ còn phải vay tiền mua sắm, ăn diện, hối lộ để đuợc giới thiệu. Nhưng nguyên nhân nào thúc đẩy họ đi lấy chồng Đài Loan, Đại Hàn? Có thể có nhiều nguyên nhân phức tạp. Phó thường dân tôi chỉ đưa ra vài nhận định thiển cận như sau: Quá nhiều chương trình ngăn chống lũ lụt, chương trình công nghiệp hóa, đô thị hoá bừa bãi, không được nghiên cứu cẩn trọng, đất đai canh tác bị thu hẹp, Dân số gia tăng. Khối lượng đông đảo người miền Trung, Bắc XHCN tràn vào. Nông dân miền Nam thiếu đất canh tác. Các cô gái miền Tây quẩn bách vì không có việc làm kinh niên – cuộc sống vô vọng mịt mờ – có nhiều trường hợp bị thúc đẩy vì cha mẹ mắng nhiếc, đay nghiến khi so sánh con gái mình với cô con gái làng bên có chồng Đại Hàn mang tiền về xây nhà gạch cho cha mẹ. Và cũng vì hấp thụ một nền giáo dục của chế độ CS (sinh sau 75) – những người trẻ tuổi không có ý niệm về luân lý đạo đức cũ, thang giá trị bị đảo lộn nên họ không đặt nặng danh dự, sĩ diện như thời trước. Do vậy – khi bị dồn vào đường cùng họ đành đánh liều nhắm mắt đưa chưn. Nhưng động lực chánh là nghèo.
Nghèo
Là nguyên nhân chánh đưa đẩy các cô gái miền Tây Nam Bộ đi lấy chồng Đại Hàn và Đài Loan… để hy vọng thoát khỏi cảnh đời cơ cực, vô vọng không lối thoát. Thế nhưng tại sao đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) – vựa lúa nuôi sống cả nước – sau 32 năm dưới chế độ CS lại trở nên nghèo như vậy – nghèo hơn cả đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) ? Theo tiêu chuẩn nghèo từng vùng của Tổng cục thống kê Việt Nam – thì tỷ lệ ĐBSCL năm 1998: ĐBSC: 37%. ĐBSH: 29% . Năm 2002: ĐBSCL: 13 %. ĐBSH: 9%. (Nhà x. b Thống kê – Hànội, trang 13 – LVB trích dẫn) Dù theo tiêu chuẩn nào: tiền tệ (tính bắng tiền hay bằng gạo) – mức sống (bao gồm lương thực, nhà ờ, mức sống văn hóa) – ĐBSCL vẫn nghèo hơn ĐBSH – bởi lẽ khi nghèo về lương thực – thì khó có thể giàu về nhà ở và đời sống văn hoá. Đó là cái nghèo mà anh Lâm văn Bé đã nhìn qua những con số có giá trị của những chương trình nghiên cứu thống kê khoa học. Và sau đây là cái nghèo miền Nam qua cái nhìn tận mắt, nghe tận nơi của người viết: Cái nghèo ở Việt Nam bao gồm cả thành thị lẫn thôn quê là cái nghèo thiếu trước hụt sau, ăn bữa sáng lo bữa chiều – cái nghèo của một nông dân, nhà dột nát. khi trời mưa lúc ban đêm, không có chỗ để nằm phải tìm một góc nhà, phủ cái mền rách lên người ngồi run cằm cặp, trước từng cơn gió lạnh buốt lùa vào căn nhà trống hốc… Cái nghèo của một người đi mượn tiền, muợn gạo. tới ngày hẹn không tiền trả. Cái nghèo của một thanh niên thất nghiệp, cha bị lao phổi không tiền mua thuốc nằm ho sù sụ, mẹ bơi xuồng đi bán bắp nấu không đủ gạo cho một đàn con 4 đứa, mũi dãi lòng thòng đang bốc đất cát chơi ngoài sân. Tục ngữ bình dân có câu: Ít ai giàu 3 họ, khó 3 đời. – Có. Tôi quen biết ông Sáu S. làm nghề chày lưới. ở sông Long Hồ. Đời con là anh Tư Te tiếp nối nghề nầy: nghề đi nhủi tép. Và trên bờ sông Long Hồ năm nay (2011) tôi thấy vợ chồng một cậu thanh niên tên M. vừa cặp xuồng vào bến, đem miệng nhủi còn dính đầy rong rêu phơi trên mái nhà lá đã nhuộm màu thời gian bạc thếch. Hỏi thăm thì té ra là con của Tư Te. Đời ông nội – nghèo! Đời cha nghèo! Đời cháu cũng nghèo! Khó 3 đời đó. Cọng Sản đổi đời cho người giàu thành nghèo – không đổi đời cho người nghèo thành giàu. Người nghèo vẫn tiếp tục nghèo. Nói chung thì nông dân Việt Nam chiếm 85% dân số mà đất không đủ để canh tác – còn công nghiệp không có khả năng biến nông dân thành thợ thuyền. trong khi dân số lại gia tăng quá tải. Cho nên thất nghiệp không thể tránh. Nghèo là hiện thực. Tiến sĩ Lê đăng Doanh trong một bài phổ biến trên mạng, viết : “Nông dân đã nghèo, đất đã kém đi, nhưng mỗi năm thêm 1 triệu miệng ăn, lấy đâu ra mà ăn. Lao động vất vả mỗi ngày trên 8m2 đất thì lấy gì mà giàu có được? “
Miền Nam – 37 năm dưới chế độ Cộng sản
Kinh tế Việt Nam – trong đó có miền Nam – có chút tiến bộ – so từ thời kỳ bao cấp đến thời kỳ mở cửa. Nhưng chỉ là tiến bộ với chính mình. Đối với các nước khác trong vùng thì còn lẹt đẹt, cầm lồng đèn đỏ… Và điều quan trọng là sự phát triển nầy có đem lại phúc lợi cho dân chúng qua sự tái phân lợi tức quốc gia, để tài trợ các chương trình y tế, giáo dục (hiện nhiều người nghèo không có tiền đóng học phí bậc Tiểu học cho con) – các chương trình tạo công ăn việc làm, phát triển nông nghiệp, xây dựng hạ tầng cơ sở hay không? Hay là phát triển bằng những con số báo cáo rổng tuếch? Lợi tức tạo được đã bị cả hệ thống của những con virus tham nhũng đục nát cơ thể. Và hiện tại – muốn phát triển công nghiệp – nhà cầm quyền địa phương – theo lệnh Đảng – mở rộng khu công nghiệp, khu du lịch, đã quy hoạch lấy đất, phá mồ phá mả, chiếm nhà dân một cách bạo ngược. Lòng dân phẩn uất, kêu la than khóc. Oán hận ngút trời xanh! (19 Tỉnh miền Nam biểu tình khiếu kiện trước trụ sở quốc hội 2 Sàigòn). Như vậy có gọi là phát triển không?
Kết luận
- 37 năm nhìn lại:
Người ta thấy miền Bắc đã “giải phóng” dân Sài gòn ra khỏi đất đai, nhà cửa của họ. Họ phải rút vô hẻm, ra ngoại ô hay về quê bằng nhiều chánh sách khác nhau. “Giải phóng” miền ĐBSCL ra khỏi sự trù phú do thiên nhiên ưu đãi từ nhiều thế kỷ. “Giải phóng” quân nhân, viên chức chế độ cũ ra khỏi nhà, để đưa họ vào các trại tù cải tạo hoặc đẩy họ ra biển… “ Giải phóng” phụ nữ miền Tây, để họ được tự do đi làm “vợ nô lệ”, đi làm điếm ở Kampuchia, TháiLan.
- 37 năm nhìn lại:
Người ta thấy Việt Nam trở lại thời kỳ mua bán nô lệ như thời Trung cổ. Phụ nữ Việt Nam bị bán đấu giá trên E-bay Taiwan website (2010) – bị trưng bày trong lồng kính, cũng để bán đấu giá như một con súc vật ở Singapour (2011). Chỉ trong năm 2011 – có khoản 400.000 phụ nữ và trẻ em bị bán ra ngoại quốc. (Theo UNI CEF – LHQ và Bộ Tư Pháp Việt Nam)
- 37 năm nhìn lại:
Mượn lời nhà báo Claude Allegre, báo L’expresse ngày 29-8-2011: “Người ta không thể cho qua một cách im lặng những Khơ me đỏ, những trại tập trung ở Cambodia và những cuộc tàn sát man rợ ở đó. Và Việt Nam không được biết đến như là một chế độ nhân đạo hơn. Dưới cái cớ là dân tộc can đảm nầy đã chiến thắng các siêu cường quốc – người ta đi đến chỗ quên đi một nền độc tài đẫm máu đang thực thi trên xứ sở”
- 37 năm nhìn lại:
Miền Bắc XHCN rõ ràng đã thiết lập một nền đô hộ miền Nam – khắc nghiệt, tinh vi hơn cả thời Pháp thuộc. Và điều quan trọng trên hết là Việt Nam đang đứng trước hiểm họa mất nước. Một trí thức Việt Nam lên tiếng cảnh cáo: “Việt Nam đang đứng trước hiểm họa mất nước. Mất cả đất đai, sông núi và dân tộc. Việt Nam sẽ trở thành một tỉnh lẻ của Tàu.” (Trích Người việt hải ngoại – Nguyễn văn Trấn)
© Trần Thế Phong
Ghi chú: ĐCV đề tựa