Tôi về Việt Nam đã nghe và thấy gì ở miền Nam sau 37 năm dưới chế độ Cộng sản
Lời người viết: Đây không phải là một
phóng sự hay một bài nghiên cứu xã hội với những phương pháp khoa học của nó –
mà chỉ là những điều vụn vặt mắt thấy tận nơi, tai nghe tận chỗ – ghi lại môt
cách trung thực.
Tôi thấy bộ mặt Sài gòn đổi mới với: Những khách sạn 5 sao, 4
sao lộng lẫy. Đổi mới với những nhà hàng “ vĩ đại “ trên các tuyến đường du
lịch. Với những trung tâm “thư giản” sang trọng, quý phái cở câu lạc bộ Lan
Anh. Với những vũ trường cực kỳ tráng lệ như vũ trường New Century Hà nội. Với
những trường Trung học tư thục mang tên Mỹ, giáo sư Mỹ, chương trình học của
Mỹ, giảng dạy bằng tiếng Mỹ- học sinh phải trả học phí bằng tiền Mỹ – 1,000 –
1,500 US$ /tháng. (Giai cấp nào đủ sức trả học phí nầy cho con? )
Tôi cũng hiểu rằng các nơi nầy là nơi ăn chơi của vương tôn công
tử “đỏ”, các nhà giàu mới – thân nhân các quyền lực đỏ đứng đàng sau, các quan
chức đỏ đô la đầy túi. Họ đến đây để “thư giản”, uống rượu, đánh bạc, cá độ và
tìm gái. Uống chơi vài chai rượu ngoại VSOP, XO là chuyện thường. Mỗi đêm có
thể tiêu hàng ngàn đô la Mỹ cũng không phải là điều lạ. Trong khi lương tháng
của một thầy giáo Trung học trường công không đủ để trả một chai rượu XO, vụ cá
độ hàng triệu đô la đã bị phanh phui là một thí dụ cụ thể. Vũ trường New
Century bị Công an đến giải tán vì các công tử và tiểu thư con các quan chức
lớn nhảy đã rồi… “ lắc” suốt đêm.
Để vài hôm sau – đâu lại cũng vào đó…
Tôi cũng thấy Sài gòn- người, xe và phố xá dầy đặc, nghẹt thở –
vài tòa cao ốc mọc lên vô trật tự – ở xa xa, có cái trông giống như chiếc hộp
quẹt, nhà cửa mặt tiền hầu hết đều lên lầu nhiều tầng. Kiến trúc hiện đại. Vật
liệu nhập cảng đắc tiền. Nhà trong hẻm – phần lớn cũng lên nhiều tầng cao
nghệu. Có nhiều khu xây cất bừa bãi, nhô ra thụt vào như những chiếc răng lòi
sĩ vô duyên, lấn chiếm ngang ngược đất công hoặc lề đường…
Tôi thấy Sài gòn bị ô nhiểm trầm trọng với hằng triệu tiếng động
cơ, ngày đêm đinh tai nhức óc và 5.000.000 chiếc Honda – phun khói mịt mù –
chưa kể đến xe hơi ???
Và hệ thống cống rảnh lạc hậu, mỗi khi trời mưa lớn – nước rút
không kịp, ứ đọng tràn ngập nhà cửa. Hệ thống đổ rác còn lạc hậu không đáp ứng
nổi nhu cầu thải rác của 10.000.000 dân nhung nhúc như kiến. Sài gòn đầy dẫy
những hàng ngoại do công ty ngoại quốc sản xuất tại chỗ, hàng lậu của Trung
quốc tràn vào vô số kể. Máu kinh tế Việt Nam bị loảng ra. Nhưng chế độ xã nghĩa
im thin thít chịu trận, không dám một lời phản kháng. Một chiếc xe Honda nhãn
hiệu Trung quốc giá khoản chừng 1,200 đô la, chưa kể hàng Trung quốc lậu thuế,
rẻ mạt. Thuốc lá và bia – bia nội, bia ngoại – có đủ. Nhậu và hút là 2 cái mốt
bình dân thời thượng nhứt ở Sài gòn. Đảng viên, cán bộ – giai cấp thống trị
-”Nhậu”. Già nhậu, trẻ nhậu… con nít cũng tập tành nhậu. Hút thì khỏi nói. Giai
cấp cán bộ răng đen mã tấu bây giờ là giai cấp nắm quyền thống trị – đã lột xác
– không còn quấn thuốc rê, bập bập phà khói mịt mù nữa – mà lúc nào cũng lấp ló
một gói 3 con 5, Craven A, trong túi. Lãnh đạo hút, cán bộ hút, dân chúng hút –
thậm chí con nít 9, 10 tuổi ở đồng quê cũng phì phà điếu thuốc một cách khoái
trá. Các hảng bia và thuốc lá ngoại quốc đã tìm được một thị trường tiêu thụ
béo bở. Cán bộ lớn cũng âu phục cà vạt hẳn hoi, xe hơi bóng loáng, nhưng bộ
răng hô, mái tóc bạc thếch, và nước da mông mốc, cũng không dấu được nét thô
kệch của một anh nhà quê mới lên Tỉnh. Tôi còn thấy Sài gòn với hiện tượng
“tiếm công vi tư” lộng hành, ngang ngược của Công an đến độ dân chúng quen
thuộc, xem là một chuyện đương nhiên như chuyện hối lộ đã trở thành cái lệ bất
thành văn trong chế độ xã nghĩa. Chiếm đoạt một nửa công viên, xây nhà gạch
dùng làm quán cà phê. Chưa thỏa mãn – ban đêm còn dọn thêm bàn ghế trên sân cỏ
của phần công viên còn lại và thắp đèn màu trên mấy chậu kiểng cho thêm thơ
mộng. Ông chủ bự nầy chắc chắc không phải là dân thường. Ông lớn nầy xem công
viên như đất nhà của ông vậy. Ai có dịp đi ngang qua mũi tàu – nơi gặp gở của 2
đường Nguyễn Trải và Lê Lai cũ, ngang hông nhà thờ Huyện Sĩ – thì rõ.
Còn nhiều, rất nhiều chuyện lộng hành chiếm đất công, lấn lề
đường nhan nhãn ở khắp Sai gòn. Chỉ đưa ra vài thí dụ cụ thể: Một công thự tại
vườn Tao đàn (có lẽ là nhà cấp cho viên Giám đốc Công viên Tao đàn) – mặt tiền
ngó vào trong – mặt hậu nhìn ra phía đường Nguyễn Du (Taberd cũ) – bên có màn
trổ cửa mặt sau nhà, xây thêm phía sau thành 2 căn phố thương mãi mặt tiền ngó
ra đường Nguyễn Du, trị giá mỗi căn, nhiều trăm ngàn mỹ kim – ngon ơ ! Tương tự
như vậy – ở góc đường Thành Thái và Cộng Hoà cũ, trước sân nhà của ông Hiệu
Trưởng trường Quốc gia Sư Phạm trước 75 – phố thương mãi, quán xá la liệt chiếm
mất mặt tiền. Ngang ngược và lộng hành nhứt là 2 căn phố thương mãi bên hông
trường Trương minh Ký, đường Trần hưng Đạo, chễm chệ xây lên ngay bên góc phải
sân trường như thách đố dân chúng. Còn trên lề đường khá rộng trước câu lạc bộ
CSS cũ, bây giờ là câu lạc bộ Lao động – nhiều gian hàng thương mãi bán quần
áo, giày vớ thể thao, buôn bán ầm ỉ, náo nhiệt suốt ngày. Công an chiếm đất
công, xây nhà tư. Công viên, lề đường trước nhà dân là đất riêng của Công An.
Công an sử dụng làm chỗ gửi xe, bịt kín cả lối đi vào nhà. Không ai dám hó hé.
Im lặng là an toàn. Thưa gửi là dại dột. Mà thưa với ai? Tất nhiên là phải thưa
với công an. Không lẽ công an xử công an? Tướng CS Trần Độ phản ảnh còn rõ rệt
hơn : “Xã hội Việt Nam ngày nay là một xã hội vô pháp luật mà phần đầu tiên gây
ra là Đảng. Không thể nào chống tham nhũng được vì nếu Đảng chống tham nhũng
thì Đảng chống lại Đảng sao? “ (Nhật ký “Rồng Rắn” của Trần Độ). Nón cối, nón
tai bèo, dép râu, áo chemise xùng xình bỏ ngoài chiếc quần màu cứt ngựa của
người cán bộ CS ngơ ngác khi mới vào Sài gòn – đã biến mất. Cũng không còn thấy
những chiếc áo dài tha thướt của những cô gái đi dạo phố ngày cuối tuần trên
các đại lộ Lê Lợi, Lê thánh Tôn, Tự do những ngày trước 75 nữa. Thay vào đó là
một đội ngũ phụ nữ – mũi và miệng bịt kín bằng “khẩu trang”, găng tay dài đến
cùi chỏ, cỡi Honda chạy như bay trên đường phố.
Tôi còn thấy những người nghèo khổ chở trên chiếc xe thồ, những
thùng carton và bao túi ny lông, chồng chất lên nhau cao ngất như sắp đổ xuống…
Những bà cụ già, những cậu bé tuổi đáng được ngồi ở ghế nhà trường, những anh
phế binh cụt tay, cụt chân, lê lết trên một miếng ván gổ … đi bán vé số (một
cách ăn xin trá hình).
Bộ mặt Sài gòn “đổi mới” bằng những khách sạn lộng lẫy, những
câu lạc bộ thời thượng, những phố xá thương mãi sang trọng, những hiệu kim hoàn
lóng lánh kim cương, những nhà hàng ăn vĩ đại, những vũ trường cực kỳ tráng lệ,
những biệt thự đồ sộ nguy nga mới xây bằng vật liệu ngoại đắt tiền, trang trí
cây cảnh như một mảng vườn Thượng uyển của vua chúa ngày xưa, những xe hơi bóng
loáng nhởn nhơ trên đường phố – Nhiều người chóa mắt. choáng váng, cho là “Việt
Nam bây giờ tiến bộ quá”. Riêng Phó thường dân tôi tự nghĩ : Như vậy có phải là
tiến bộ không ? Sự tiến bộ của một nước cần phải nhìn về nhiều mặt : Mặt y tế
và giáo dục, mặt đời sống vật chất và tinh thần của dân chúng. Lợi tức đầu
người của Việt Nam – theo thống kê của báo The Economist – bằng: 800 US$ năm
2011 (Hà Nội bốc lên 1,000 US$, chỉ hơn Lào và Cambodia chút đỉnh. So với các
nước láng giềng: Thái Lan: 3.500 US$ – Phi luật Tân: 2.000 US$ – Nam Dương:
1.160.US$. Tân gia Ba 30.000 US$. (The Economist World, năm 2011 – p. 158, 176,
238) – Việt Nam còn lẹt đẹt đàng sau rất xa. Và trước bộ mặt thay đổi choáng
ngợp nầy – nếu đặt câu hỏi: Ai là chủ nhân của những xe hơi, khách sạn- vũ
trường, những thương hiệu lớn, những biệt thự lộng lẫy kia? – Thì câu trả lời
không sợ sai lầm là của cán bộ đảng viên (tại chức hoặc giải ngủ) hoặc con cháu
thân nhân của họ. Và ở thôn quê – Giai cấp giàu có bây giờ là ai ? Giai cấp địa
chủ là ai ? Có phải do của cải của ông cha để lại hay do sự kinh doanh tự do,
mua bán làm ăn mà có ???
Hiện tượng người Bắc XHCN chiếm hữu toàn bộ phố xá thương
mại quan trọng ở Sài gòn, khống chế mọi lãnh vực trọng yếu ở miền Nam
Cho dù núp dưới cái hào quang chiến thắng “đánh Tây, đuổi Mỹ” –
cho dù che giấu, lấp liếm, giải thích thế nào chăng nữa – Thì dân miền Nam (gồm
cả Nam lẫn Bắc theo chế độ Tự Do) vẫn thấy một sự thật. Sự thật đó là người Bắc
XHCN tràn ngập, chiếm hữu toàn bộ phố xá thương mãi trọng yếu của Sài gòn. Làm
sao nói khác được khi đi một vòng quanh Sài gòn và các khu phố sầm uất nhứt, vào
những hiệu buôn lớn để mua hàng hay hỏi han chuyện trò thì thấy toàn là người
Bắc Cộng sản – Từ cô bán hàng đến bà chủ ngồi phía trong cũng toàn là người của
xã hội chủ nghĩa miền Bắc. Các tiệm buôn lớn trước 75- như các tiệm vàng Nguyễn
thế Tài, Nguyễn thế Năng, Pharmacie Trang Hai, tiệm Émile Bodin của bầu Yên,
nhà hàng Bồng Lai, Thanh Thế, Nguyễn văn Đắc, Phạm thị Trước. Hiện nay, một số
đã đổi bảng hiệu hoặc xây cât lại nhưng đều do người miền Bắc XHCN làm chủ. Các
cơ sở khác như nhà hàng ăn lớn, tiệm phở, công ty thương nghiệp, dịch vụ lớn,
những tiệm buôn bán đồ nhập cảng v. v. cũng đều do người Bắc XHCN chiếm giữ.
Tuy không có con số thống kê chính xác nhưng tự mình đi đếm hàng trăm tiệm buôn
sang trọng quanh các khu phố lớn ở Sài gòn thì khám phá ra được chủ nhân là
người Bắc XHCN (Tất nhiên là vợ con, thân nhân cán bộ lớn). Những gái Bắc XHCN
bán hàng là con cháu của chủ nhân người Bắc CS (do các cô tự nói ra). Các cô
chiêu đãi viên trên phi cơ VNHK đều là người Bắc thân nhân hay con cháu cán bộ
– dĩ nhiên – vẻ mặt lạnh lùng, hách dịch với người Việt Nam và khúm núm lịch sự
với khách ngoại quốc. Cán bộ, công nhân viên trọng yếu – Cũng đều là người Bắc
– Trừ một số cán bộ gốc miền Nam ra Bắc tập kết – theo đoàn quân viễn chinh vào
đánh chiếm miền Nam – Thì cũng kể họ là người XHCN miền Bắc cả. Hệ thống quyền
lực từ trên đến dưới – Từ Trung ương đến địa phương – Từ Tỉnh thành đến quận
lỵ, thị trấn, làng xã gần – đều do đảng viên người miền Bắc XHCN – nắm giữ.
Những công Ty dịch vụ có tầm cở, những công Ty thương mãi sản xuất lớn – điển
hình là một công Ty vận tải và du lịch có đến 10,000 xe hơi đủ loại, chủ nhân
cũng là người Bắc XHCN. Từ chính trị đến văn hóa, từ giáo dục đến truyền thông,
từ nhà cầm quyền cai trị đến chủ nhân cơ sở thương mãi, sản xuất – Cũng là do
người miền Bắc XHCN nắm giữ. Đó là sự thật trước mắt ai cũng thấy. Còn những
vàng bạc, kim cương, đô la, tài sản tịch thu, chiếm đoạt được trong các cuộc
đánh tư sản, cải tạo công thuơng nghiệp – nhà cửa của tù cải tạo, của dân bị
đuổi đi kinh tế mới, những tấn vàng của VNCH để lại, những luợng vàng thu được
từ những người vuợt biên bán chánh thức – tài sản những người thuộc diện tư sản
– toàn bộ tài sản nầy từ Sài gòn đến các Tỉnh miền Trung, miền Nam – được đem
đi đâu? – Không ai biết. Thông thường – những của cãi nầy phải được sung vào
công quỹ – để làm việc công ích như các ông cộng sản thường rêu rao bằng những
mỹ từ đẹp đẻ. Thế nhưng – sự thật trước nhứt – là các ông đem chia chác nhau.
Chia nhau một cách hợp hiến và hợp pháp theo Luật pháp XHCN (Đọc Đất đai-Nguồn
sống và Hiểm Họa của Tiến sĩ Nguyễn thanh Giang). Ông lớn lấy tài sản lớn. Ông
nhỏ – nhà cửa nhỏ. Có ông cán bộ trung cấp chiếm hữu đến 4, 5 căn nhà. Ở không
hết… đem cho công Ty ngoại quốc thuê. Điều phổ biến nhứt là các ông cán bộ nầy
– vì lo sợ cái gì đó – bèn đem “ bán non” những căn nhà đó lấy tiền bỏ túi
trước. Một căn nhà của một viên chức tù cải tạo đã sang tay đến 3 đời chủ. Nhà
cửa thuộc diện tù cải tạo là dứt khoát phải tịch thu – không ngoại lệ. Những
trường hợp con ruột có hộ khẩu chánh thức còn được phép ở lại – là những biện
pháp vá víu. Chủ quyền căn nhà nầy là Nhà nước XHCN. Không chỉ có những người
thuộc diện cải tạo công thương nghiệp, tù cải tạo, vượt biên mà người dân
thường có nhà cửa phố xá đều bị “ giải phóng” ra khỏi nhà bằng nhiều chánh
sách: Đuổi đi kinh tế mới, dụ vào hợp tác xã tiểu công nghiệp, mượn nhà làm trụ
sở, cho cán bộ vào ở chung (chủ nhà chịu không nổi… phải bỏ đi), đổi tiền để vô
sản hoá người dân, khiến họ bắt buộc phải bán tất cả những gì có thể bán để mua
gạo ăn, cuối cùng chịu không nổi, phải bán nhà với giá rẻ bỏ, để vô hẻm ở, ra
ngoại ô hoặc về quê… Cán bộ hoặc thân nhân cán bộ miền Bắc XHCN tràn vào “mua”
nhà Saigòn với giá gần như cho không… và bây giờ là chủ những căn nhà mặt tiền
ở Sài gòn. Mang xe tăng T. 54, cà nông Liên xô, AK Trung cộng, đẩy hàng hàng
lớp lớp thiếu niên “xẻ dọc Trường Sơn” bằng máu, nước mắt và xác chết… vào xâm
chiếm miền Nam. Chiêu bài là “giải phóng” nhân dân miền Nam – nhưng sự thật khó
chối cãi được – là vào để chiếm đoạt tài sản, đất đai, của cải, đuổi dân Sài
gòn (gồm cả người Nam lẫn Bắc theo chế độ Tự Do) ra khỏi Thủ Đô bằng nhiều
chánh sách khác nhau – để bây giờ chính các ông đã trở thành những nhà tư bản
đỏ triệu phú, tỉ phú đô la, vàng bạc kim cương đầy túi – những ông chủ công Ty
có tầm vóc, những địa chủ đầy quyền lực. Trương mục ở nước ngoài đầy nhóc đô
la. Con cái du học ngoại quốc. (Trường hợp con Thủ Tướng CS Nguyễn tấn Dũng
đang du học Mỹ là trường hợp điển hình).
Như vậy hành vi nầy gọi là gì? Trong những lúc canh tàn rượu
tỉnh – một mình đối diện với luơng tâm thuần luơng của mình – các ông tự gọi
mình đi. Đến thời “mở cửa” – cơ hội hốt tiền còn nhiều hơn gấp bội. Tư bản
ngoại quốc ồ ạt đầu tư, khai thác dầu khí, thâu đô la Việt kiều về thăm quê hương
– đô la khách du lịch ngoại quốc, bán đất cho Công Ty ngoại quốc xây cất cơ
xưởng, cấp giấy phép các công Ty ngoại quốc, các dịch vụ đấu thầu xây cất cầu
cống, làm đuờng xá, xây cất đại công tác. Những món nợ kếch xù từ Ngân hàng thế
giới, từ quỷ tiền tệ quốc tế – những món nợ trả đến mấy đời con cháu cũng chưa
dứt. Những đại công tác nầy mặc sức mà ăn, no bóc ké. Nhiều công trình vừa xây
cất xong đã muốn sụp xuống vì nạn ăn bớt vật liệu. Một thí dụ diển hình: Một
bệnh viện gần chợ “cua” Long Hồ – quê hương của Phạm Hùng – nước vôi còn chưa
ráo đã muốn sụp. Hiện đóng cửa không sử dụng được. Hiện tượng người Bắc XHCN
khống chế toàn bộ, làm chủ nhân ông mọi lãnh vực, chiếm hữu nhà cửa, phố xá
thương mãi ở những khu thương mãi quan trọng nhứt – là một sự thật không thể
chối bỏ. Cán bộ lớn đã trở thành những nhà tài phiệt đầy quyền lực – những ông
chủ lớn giàu có nhứt lịch sử. Trong khi dân chúng miền quê – nhứt là miền Nam –
ngày càng nghèo khổ, thất nghiệp kinh niên. Khoảng cách giàu nghèo càng lớn –
đời sống cán bộ và dân chúng càng ngày cách biệt. Giàu thì giàu quá sức. Nghèo
thì nghèo cùng cực. Nhà văn – bác sĩ Hoàng Chính – gọi thời kỳ sau 75 là thời
“Bắc thuộc”: – “Năm Bắc thuộc thứ 2: Lưu vong tại quê nhà trong cái đói lạnh. –
Năm Bắc thuộc thứ 6: Cầu cho em nhỏ 10 tuổi đầu đủ cơm ăn giữa bầy thú hát điên
cuồng chuyện thù oán. – Năm Bắc thuộc thứ 12: Trong ngục thất quê hương ấy, có
những bộ xương thôi tập khóc cười. “ Miền Bắc XHCN đem quân xâm chiếm miền Nam
để khống chế nơi đó bằng sự đô hộ hà khắc và tinh vi.
Bộ mặt của thôn quê miền Nam
Có nhìn tận mắt, nghe tận nơi, mới hình dung được khuôn mặt miền
Nam sau 37 năm dưới chế độ cọng sản. Để được trung thực – người viết ghi những
điều thấy và nghe – không bình luận – tại những nơi đã đi qua. Thôn quê miền
Nam – những làng xóm gần tỉnh lỵ quận lỵ đã có điện. Những làng xã xa xôi hẻo
lánh vẫn còn sống trong sự tăm tối. Đường sá có tu sửa phần nào. Đường mòn đi
sâu vào thôn xóm được lót bằng những tấm dalle lớn (đường xóm Cái Nứa, Cái
Chuối xã Long Mỹ, VL), xe Honda và xe đạp chạy qua được. “Cầu tre lắt lẻo”, cầu
khỉ được thay thế bằng cầu ván, cầu đúc (vật liệu nhẹ). Cầu tiêu công cộng trên
sông các chợ quận (Cái bè, Cái răng) nay không còn thấy nữa. Nhà cửa dọc theo
bờ sông Cần Thơ – chen vào những nhà gạch ngói, nhà tôn – còn nhiều nhà lá
nghèo nàn. Tương tự như vậy – dọc theo bờ sông Long Hồ – một số nhà gạch nhỏ
mới cất. xen kẻ những mái lá bạc màu. Vùng Trà ốp, Trà Cú (Vĩnh Bình), chợ Thầy
Phó (Vĩnh Long) nhiều nhà gạch mới xây nhưng vẫn không thiếu nhà lá, nhà tôn.
Đường mòn chạy sâu vào thôn xóm vẫn còn đường đất lầy lội vào mùa mưa nước nổi.
Hai bên đường xe chạy từ Mỹ Tho, Cao Lãnh, Châu Đốc, Hà Tiên, Rạch Giá, Cần
Thơ. Nhìn chung – có một sự thay đổi rõ rệt. Nhà cửa, hàng quán dầy đặc, động
cơ ồn ào, người ta chen chúc. Cảm giác chung là ngột ngạt, khó thở. Những vườn
cây xanh um bên đường đã biến mất hoặc thụt sâu vào trong, không còn thấy nữa.
Không còn vẻ đẹp thiên nhiên ngày nào của vườn xoài cát sai oằn, mát mắt vùng
Cái Bè, An Hữu, vườn mận Hồng Đào chạy dài hàng mấy cây số ở Trung Lương. Dưới
sông – từ kinh Vỉnh Tế chảy dài ra sông Tiền Giang – hai bên bờ toàn là nhà
sàn, phía sau chống đở sơ sài bằng những trụ cây tràm. Mỗi nhà hoặc 2, 3 nhà
đều có cầu tiêu tiểu bắc phía sau. Tắm rửa giặt giũ, múc nước lên uống, phóng
uế – cũng cùng trên một dòng sông. Không có gì thay đổi. Làng Chàm còn gọi là
chà Châu Giang cũng còn đó. Cũng nghèo như trước. Những chiếc ghe vừa dùng làm
nhà ở, vừa là hồ nuôi cá Basa, cá điêu hồng v. v. ở dọc bờ sông khá dài. Dường
như ngành nầy hoạt động khá mạnh. Dọc trên những nhánh phụ lưu của 2 con sông
Tìền và sông Hậu – người ta không còn thấy bóng dáng của những cô gái thướt tha
trong chiếc áo bà ba và chiếc quần lãnh Mỹ A, chèo ghe tam bản, bơi xuồng như
thời trước 75 nữa. Hỏi một ông già tên Ph. tại Cái Răng, được trả lời: “ Đi lấy
Đại Hàn, Đài Loan hết rồi ông ơi! “ Tôi hỏi thêm: “ Các cô gái có nghe nhiều
người bị gạt bán vào ổ mãi dâm, nhiều cô gái bị chồng bắt làm lao động khổ sai,
bị ngược đãi, đánh đập. các cô gái nầy không sợ sao ông? – “ Biết hết – mấy cổ
biết hết, báo Tuổi trẻ đăng hàng ngày. Nhưng cũng có những cô có chồng Đại Hàn,
cho tiền cha mẹ xây nhà gạch. Cô khác thấy vậy ham. Phần nghèo, phần không có
việc làm kinh niên. Họ liều đó ông, biết đâu gặp may.
“Câu chuyện gái Việt lấy chồng Đại Hàn, Đài Loan hiện không ai
là không biết. Tờ Tuổi trẻ – số ra ngày mùng 1 Tết năm Đinh Hợi – trong bài: “
Nỗi đau từ những con số”- có nói đến số phận của 65.000 phụ nữ đang làm vợ
những ông chồng Đài Loan già, tàn tật đui mù, làm vợ tập thể cho cả gia đình
cha lẫn con. Cũng do tờ báo nầy: “Tại một tổ chức kết hôn lậu, hàng chục cô gái
đang “bày hàng” để 2 ông Hàn quốc tuyển chọn làm vợ và 118 cô gái khác đang
nằm, ngồi, lố nhố chờ đến luợt mình “ Và cũng do tờ Tuổi Trẻ số phát hành ngày
25-04-2007, viết: “Hơn 60 cô gái, tuổi từ 18 đến 20 từ miền Tây Nam bộ lên Sài
gòn để dự tuyển. Các chàng rể Hàn Quốc được quyền soi xem kỷ, chú ý đến cả từng
vết thẹo trên thân thể cô gái.Dich vụ môi giới hôn nhân lậu có chiều hướng gia
tăng. Chỉ trong vòng nửa tháng mà Công An đã phát hiện 3 vụ môi giới hôn nhân
trái phép ở quận 6, 10 và Tân Bình với gần 400 lượt cô gái hiện diện. Thậm chí
– những cô gái được xe ôm chở tới địa điểm dồn dập gây náo loạn cả xóm”. Người
viết có lần lang thang trên đường Nguyễn tri Phương tìm quán ăn cơm trưa, có
chứng kiến tại chỗ: Từng cặp trai gái lố nhố xếp hàng đôi trước cửa một trường
học, để lần luợt vào trong. Hỏi một người trung niên lái xe Honda ôm, được anh
trả lời: ‘ “Đó là những người con gái đi lấy chồng Đài Loan và Đại Hàn. Hàng
bên trong là những đang làm thủ tục xuất ngoại theo chồng. Hàng bên ngoài là
những người đang vào ký giấy hôn thú sau khi đã qua các cửa ải môi giới và thủ
tục tuyển lựa”. Tôi nhìn kỷ các cô gái nầy tuổi rất trẻ khoản chừng 18 đến 20,
đứng cặp với những anh Tàu già sồn sồn- có một người tàn tật. Không thấy có
thanh niên trẻ. Nhìn cách ăn mặc và nghe họ nói chuyện – tôi đoán chừng họ đến
từ miền Tây Nam Bộ. Đây là tổ chức môi giới chánh thức có giấy phép hành nghề.
Song song với tổ chức chánh thức, còn có một tổ chức “ môi giới hôn nhân lậu”-
sự thật là một tổ chức buôn người, chuyên đi dụ dỗ trẻ em và gái, nói gạt là đi
bán hàng hay đi làm việc tại các cơ xưởng ngoại quốc nhưng là để bán thẳng vào
các ổ mãi dâm ở Kampuchia, Thái Lan, Ma Cau để nơi đây huấn luyện trẻ em làm nô
lệ tình dục, các cô gái làm điếm, hoặc bán cho người Tàu bỏ tiền ra mua nô lệ.
Tất nhiên là phải có sự tiếp tay che chở ăn chia của Công An. Nói là lậu nhưng
thật ra là nhan nhãn xảy ra hằng tuần – thậm chí hằng ngày trước mặt dân chúng
tại các quận Bình Thạnh, quận 11, Sàigòn. Cho dù chánh thức hay lậu, hậu quả
cũng gần giống nhau. Chánh thức thì có giấy phép, có công an làm thủ tục, chánh
phủ thu tiền lệ phí. Lậu thì lén lút với sự che chở của Công An. Hậu quả gần
giống nhau. Nhiều cô gái về làm vợ mấy tên Đài Loan, Đại Hàn bị ngược đãi, đánh
đập tàn nhẫn – ban ngày làm nô dịch, ban đêm phục vụ tình dục rồi bán vào động
mãi dâm lấy tiền gở vốn lại. (Trại cứu giúp nạn nhân của cha Hùng ở Đài Bắc là
một bằng chứng) Còn lậu thì bán thẳng vào ổ điếm.
Biết bao nhiêu thảm cảnh, biết bao nhiêu bi kịch thương tâm làm
rúng động lương tâm nhân loại. Cựu Quốc Trưởng Sihanouk không giấu được nỗi xót
xa trước thảm cảnh người phụ nữ Miên làm vợ mấy thằng Tàu, lên tiếng kêu gọi họ
trở về nước. Không thấy Việt Nam nói nửa lời! Những cô gái nầy có biết những
thảm kịch đau thương, những sự hành hạ, ngược đãi, đánh đập. nầy khi lấy chồng
Đài Loan, Đại Hàn không? Có bị cưỡng bức, bị dụ dỗ hay tự nguyện? Cha mẹ có
đồng ý hay cản trở? Nguyên nhân nào đã thúc đẩy họ dấn thân vào con đường hiểm
nguy, tương lai mù mịt? Trừ những trường hợp bị dụ dỗ qua đường dây buôn người
– những người con gái này thật sự là họ TỰ NGUYỆN. Họ còn phải vay tiền mua
sắm, ăn diện, hối lộ để đuợc giới thiệu. Nhưng nguyên nhân nào thúc đẩy họ đi
lấy chồng Đài Loan, Đại Hàn? Có thể có nhiều nguyên nhân phức tạp. Phó thường
dân tôi chỉ đưa ra vài nhận định thiển cận như sau: Quá nhiều chương trình ngăn
chống lũ lụt, chương trình công nghiệp hóa, đô thị hoá bừa bãi, không được
nghiên cứu cẩn trọng, đất đai canh tác bị thu hẹp, Dân số gia tăng. Khối lượng
đông đảo người miền Trung, Bắc XHCN tràn vào. Nông dân miền Nam thiếu đất canh
tác. Các cô gái miền Tây quẩn bách vì không có việc làm kinh niên – cuộc sống
vô vọng mịt mờ – có nhiều trường hợp bị thúc đẩy vì cha mẹ mắng nhiếc, đay
nghiến khi so sánh con gái mình với cô con gái làng bên có chồng Đại Hàn mang
tiền về xây nhà gạch cho cha mẹ. Và cũng vì hấp thụ một nền giáo dục của chế độ
CS (sinh sau 75) – những người trẻ tuổi không có ý niệm về luân lý đạo đức cũ,
thang giá trị bị đảo lộn nên họ không đặt nặng danh dự, sĩ diện như thời trước.
Do vậy – khi bị dồn vào đường cùng họ đành đánh liều nhắm mắt đưa chưn. Nhưng
động lực chánh là nghèo.
Nghèo
Là nguyên nhân chánh đưa đẩy các cô gái miền Tây Nam Bộ đi lấy
chồng Đại Hàn và Đài Loan… để hy vọng thoát khỏi cảnh đời cơ cực, vô vọng không
lối thoát. Thế nhưng tại sao đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) – vựa lúa nuôi
sống cả nước – sau 32 năm dưới chế độ CS lại trở nên nghèo như vậy – nghèo hơn
cả đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) ? Theo tiêu chuẩn nghèo từng vùng của Tổng cục
thống kê Việt Nam – thì tỷ lệ ĐBSCL năm 1998: ĐBSC: 37%. ĐBSH: 29% . Năm 2002:
ĐBSCL: 13 %. ĐBSH: 9%. (Nhà x. b Thống kê – Hànội, trang 13 – LVB trích dẫn) Dù
theo tiêu chuẩn nào: tiền tệ (tính bắng tiền hay bằng gạo) – mức sống (bao gồm
lương thực, nhà ờ, mức sống văn hóa) – ĐBSCL vẫn nghèo hơn ĐBSH – bởi lẽ khi nghèo
về lương thực – thì khó có thể giàu về nhà ở và đời sống văn hoá. Đó là cái
nghèo mà anh Lâm văn Bé đã nhìn qua những con số có giá trị của những chương
trình nghiên cứu thống kê khoa học. Và sau đây là cái nghèo miền Nam qua cái
nhìn tận mắt, nghe tận nơi của người viết: Cái nghèo ở Việt Nam bao gồm cả
thành thị lẫn thôn quê là cái nghèo thiếu trước hụt sau, ăn bữa sáng lo bữa
chiều – cái nghèo của một nông dân, nhà dột nát. khi trời mưa lúc ban đêm,
không có chỗ để nằm phải tìm một góc nhà, phủ cái mền rách lên người ngồi run
cằm cặp, trước từng cơn gió lạnh buốt lùa vào căn nhà trống hốc… Cái nghèo của
một người đi mượn tiền, muợn gạo. tới ngày hẹn không tiền trả. Cái nghèo của
một thanh niên thất nghiệp, cha bị lao phổi không tiền mua thuốc nằm ho sù sụ,
mẹ bơi xuồng đi bán bắp nấu không đủ gạo cho một đàn con 4 đứa, mũi dãi lòng
thòng đang bốc đất cát chơi ngoài sân. Tục ngữ bình dân có câu: Ít ai giàu 3
họ, khó 3 đời. – Có. Tôi quen biết ông Sáu S. làm nghề chày lưới. ở sông Long
Hồ. Đời con là anh Tư Te tiếp nối nghề nầy: nghề đi nhủi tép. Và trên bờ sông
Long Hồ năm nay (2011) tôi thấy vợ chồng một cậu thanh niên tên M. vừa cặp
xuồng vào bến, đem miệng nhủi còn dính đầy rong rêu phơi trên mái nhà lá đã
nhuộm màu thời gian bạc thếch. Hỏi thăm thì té ra là con của Tư Te. Đời ông nội
– nghèo! Đời cha nghèo! Đời cháu cũng nghèo! Khó 3 đời đó. Cọng Sản đổi đời cho
người giàu thành nghèo – không đổi đời cho người nghèo thành giàu. Người nghèo
vẫn tiếp tục nghèo. Nói chung thì nông dân Việt Nam chiếm 85% dân số mà đất
không đủ để canh tác – còn công nghiệp không có khả năng biến nông dân thành
thợ thuyền. trong khi dân số lại gia tăng quá tải. Cho nên thất nghiệp không
thể tránh. Nghèo là hiện thực. Tiến sĩ Lê đăng Doanh trong một bài phổ biến
trên mạng, viết : “Nông dân đã nghèo, đất đã kém đi, nhưng mỗi năm thêm 1 triệu
miệng ăn, lấy đâu ra mà ăn. Lao động vất vả mỗi ngày trên 8m2 đất thì lấy gì mà
giàu có được? “
Miền Nam – 37 năm dưới chế độ Cộng sản
Kinh tế Việt Nam – trong đó có miền Nam – có chút tiến bộ – so
từ thời kỳ bao cấp đến thời kỳ mở cửa. Nhưng chỉ là tiến bộ với chính mình. Đối
với các nước khác trong vùng thì còn lẹt đẹt, cầm lồng đèn đỏ… Và điều quan
trọng là sự phát triển nầy có đem lại phúc lợi cho dân chúng qua sự tái phân
lợi tức quốc gia, để tài trợ các chương trình y tế, giáo dục (hiện nhiều người
nghèo không có tiền đóng học phí bậc Tiểu học cho con) – các chương trình tạo
công ăn việc làm, phát triển nông nghiệp, xây dựng hạ tầng cơ sở hay không? Hay
là phát triển bằng những con số báo cáo rổng tuếch? Lợi tức tạo được đã bị cả
hệ thống của những con virus tham nhũng đục nát cơ thể. Và hiện tại – muốn phát
triển công nghiệp – nhà cầm quyền địa phương – theo lệnh Đảng – mở rộng khu
công nghiệp, khu du lịch, đã quy hoạch lấy đất, phá mồ phá mả, chiếm nhà dân
một cách bạo ngược. Lòng dân phẩn uất, kêu la than khóc. Oán hận ngút trời
xanh! (19 Tỉnh miền Nam biểu tình khiếu kiện trước trụ sở quốc hội 2 Sàigòn).
Như vậy có gọi là phát triển không?
Kết luận
- 37 năm nhìn lại:
Người ta thấy miền Bắc đã “giải phóng” dân Sài gòn ra khỏi đất
đai, nhà cửa của họ. Họ phải rút vô hẻm, ra ngoại ô hay về quê bằng nhiều chánh
sách khác nhau. “Giải phóng” miền ĐBSCL ra khỏi sự trù phú do thiên nhiên ưu
đãi từ nhiều thế kỷ. “Giải phóng” quân nhân, viên chức chế độ cũ ra khỏi nhà,
để đưa họ vào các trại tù cải tạo hoặc đẩy họ ra biển… “ Giải phóng” phụ nữ
miền Tây, để họ được tự do đi làm “vợ nô lệ”, đi làm điếm ở Kampuchia, TháiLan.
- 37 năm nhìn lại:
Người ta thấy Việt Nam trở lại thời kỳ mua bán nô lệ như thời
Trung cổ. Phụ nữ Việt Nam bị bán đấu giá trên E-bay Taiwan website (2010) – bị
trưng bày trong lồng kính, cũng để bán đấu giá như một con súc vật ở Singapour
(2011). Chỉ trong năm 2011 – có khoản 400.000 phụ nữ và trẻ em bị bán ra ngoại
quốc. (Theo UNI CEF – LHQ và Bộ Tư Pháp Việt Nam)
- 37 năm nhìn lại:
Mượn lời nhà báo Claude Allegre, báo L’expresse ngày 29-8-2011:
“Người ta không thể cho qua một cách im lặng những Khơ me đỏ, những trại tập
trung ở Cambodia và những cuộc tàn sát man rợ ở đó. Và Việt Nam không được biết
đến như là một chế độ nhân đạo hơn. Dưới cái cớ là dân tộc can đảm nầy đã chiến
thắng các siêu cường quốc – người ta đi đến chỗ quên đi một nền độc tài đẫm máu
đang thực thi trên xứ sở”
- 37 năm nhìn lại:
Miền Bắc XHCN rõ ràng đã thiết lập một nền đô hộ miền Nam – khắc
nghiệt, tinh vi hơn cả thời Pháp thuộc. Và điều quan trọng trên hết là Việt Nam
đang đứng trước hiểm họa mất nước. Một trí thức Việt Nam lên tiếng cảnh cáo:
“Việt Nam đang đứng trước hiểm họa mất nước. Mất cả đất đai, sông núi và dân
tộc. Việt Nam sẽ trở thành một tỉnh lẻ của Tàu.” (Trích Người việt hải ngoại –
Nguyễn văn Trấn)
© Trần Thế Phong
Ghi chú: ĐCV đề tựa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bấm vào dưới avata "Tham gia trang web này " để có thể biết bài mới của Ròm