Ròm đem về từ bên trang http://www.quehuongngaymai.com/forums/showthread.php?p=1255097#post1255097
Related article: Hải chiến Hoàng Sa 19-1-1974 HỘ TỐNG HẠM NHẬT TẢO (HQ 1O) ĐI VÀO LỊCH SỬ
Ta thử đọc xem trang Petrotimes thuộc công ty dầu khí VN (Việt+) viết như thế nào về trận đánh đã ghi vào lịch sử 4000 năm chống xâm lược Tàu của dân tộc Việt Nam:Trận Hải Chiến Hoàng Sa 1974 của Hải Quân/ QLVNCH. Bài báo này tôi copy toàn bộ kể cả hình ảnh theo nguyên bản không sửa chữa, kiểm duyệt cho các bạn tham khảo (ngv)
(Petrotimes) - Hải chiến Hoàng Sa là một trận chiến giữa Hải quân Việt Nam cộng hòa và Hải quân Trung Quốc từ 17 đến 19/1/1974 trên quần đảo Hoàng Sa. Từ nguồn tài liệu của sách, báo trong nước và nước ngoài, xuất bản từ 1974 đến 2004, Petrotimes sẽ giới thiệu với bạn đọc về toàn bộ sự kiện này nhân 40 năm Trung Quốc cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa:
Điều bất ngờ khi chạm trán đối phương
Ngày 16/1/1974, Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt (HQ-16) đưa một phái đoàn công binh Quân đoàn I của Việt Nam Cộng Hòa do Thiếu tá Hồng dẫn đầu (trong đó có một người Mỹ tên Kosh thuộc Văn phòng Tùy viên quân sự Hoa Kỳ tại Ðà Nẵng) ra thăm dò một số đảo Hoàng Sa để thiết lập một đường băng ngắn đã phát hiện hai ngư thuyền ngụy trang số 402 và số 407 của Hải quân Trung Quốc gần đảo Hữu Nhật (còn được gọi không chính xác là đảo Cam Tuyền), đồng thời phát hiện quân Trung Quốc chiếm đóng đảo Quang Hòa và cắm cờ Trung Quốc tại các đảo Hữu Nhật, Duy Mộng, Quang Ảnh (còn được gọi không chính xác là đảo Vĩnh Lạc).
Sau khi cấp báo về Bộ Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải tại Đà Nẵng, tàu HQ-16 bắn pháo hiệu yêu cầu các chiến hạm Trung Quốc rời lãnh hải Việt Nam. Các chiến hạm Trung Quốc không chấp thuận yêu cầu, và cũng dùng pháo hiệu yêu cầu phía Việt Nam cộng hòa rời lãnh hải Trung Quốc.
Ngày 17/1/1974, Khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ-4) đến Hoàng Sa, chở theo một toán người nhái (biệt hải) và một đội hải kích đổ bộ xuống Hữu Nhật, Duy Mộng, Quang Ảnh để nhổ cờ Trung Quốc, dựng cờ Việt Nam cộng hoà. Sau đó lính Việt Nam cộng hòa rút quân lên tàu. Theo hạm trưởng HQ-16, Trung tá Lê Văn Thự, toán biệt hải rời HQ-4 bằng xuồng cao su để lên HQ-16. Cùng ngày, hai tàu Liệp tiềm đĩnh loại Kronstad số 274 và 271 của Trung Quốc xuất hiện.
Bốn chiến hạm của Việt Nam Cộng hòa đã tham dự trận hải chiến Hoàng Sa bảo vệ lãnh thổ vào năm 1974
Thiếu tá HQ Việt Nam Cộng Hòa Ngụy Văn Thà và tàu HQ-10. (Ảnh tư liệu)
Hải quân Việt Nam cộng hoà có 74 binh sỹ tử vong trong đó HQ-10 có 62 người chết, bao gồm hạm trưởng Ngụy Văn Thà, HQ-4 có 3 người chết, HQ-5 có 3 quân nhân tử vong và 16 bị thương, HQ-16 có 2 người chết, lực lượng người nhái có 4 người chết.
Hai ngày sau trận hải chiến, ngày 20/1, tàu chở dầu Hà Lan "Kopionella" trên đường hành trình gần đó đã vớt được 23 người thuộc thủy thủ đoàn của HQ-10 đang trôi dạt trên biển. Đến 10 ngày sau, ngày 29/1, ngư dân Việt Nam cũng vớt được một toán quân nhân Việt Nam cộng hòa gần Mũi Yến (Qui Nhơn), gồm 1 sĩ quan, 2 hạ sĩ quan và 12 quân nhân thuộc lực lượng đổ bộ lên đảo Quang Hòa, đã dùng bè vượt thoát đảo sau trận hải chiến.
Theo tài liệu của Trung Quốc thì các tàu 274, 271, 389, 396 của họ đều trúng đạn, 281, 282 và 402, 407 bị hư hại trung bình, HQ-10 bị chìm tại trận. Trung Quốc bắt giữ 48 tù binh, trong đó có một người Mỹ. Trung Quốc có trao trả tù binh sau đó tại Hồng Kông qua Hội Chữ thập đỏ.
Phía Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có 18 binh sĩ thiệt mạng, 67 binh sĩ bị thương và 3 người bị xây xát nhẹ. Một trong những binh sĩ trở về từ cuộc chiến là Ngô Tiên Phong, ông đã được nhà nước và quân đội Trung Quốc phong anh hùng và được tặng huân chương chiến công hạng nhất.
Trung Quốc chiếm đóng toàn bộ quần đảo Hoàng Sa từ thời điểm này.
Không có giải pháp nào cứu vãn tình thế
Từ sau trận chiến cho đến sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, Việt Nam cộng hòa đã ra nhiều tuyên bố cũng như trưng ra các chứng cớ lịch sử về chủ quyền của mình như:
"Tuyên cáo của Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam cộng Hòa về những hành động gây hấn của Trung Quốc trong khu vực đảo Hoàng Sa" số 015/BNG/TTBC/TT ngày 19/1/1974
"Tuyên cáo của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa về chủ quyền của Việt Nam Cộng hòa trên những đảo ở ngoài khơi bờ biển Việt Nam Cộng hòa" ngày 14/2/1974
Tài liệu "Thế giới lên án Trung Cộng xâm lăng Hoàng Sa của Việt Nam Cộng hòa", Tổng cục chiến tranh chánh trị, Cục tâm lý chiến, Quân lực Việt Nam Cộng hòa, 1974.
"Sách trắng về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa", Bộ ngoại giao Việt Nam cộng hòa, 1975
Chính sách nhất quán của Việt Nam Cộng Hoà là bảo vệ đến cùng sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam trên bộ cũng như trên biển. Việt Nam cộng hoà không bao giờ thừa nhận Hoàng Sa thuộc về Trung Quốc bằng hành động vũ lực cưỡng chiếm lãnh thổ Việt Nam.
Ngày 20/1/1974, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ra bản Tuyên bố phản đối hành động này của phía Trung Quốc. Ngày 26/1/1974, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam tuyên bố lập trường 3 điểm về việc giải quyết các vấn đề tranh chấp lãnh thổ. Ngày 14/2/1974, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam tuyên bố khẳng định quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là một bộ phận của lãnh thổ Việt Nam.
Chính phủ Mỹ không có tuyên bố ngoại giao nào lên án việc Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa mà chỉ tỏ thái độ thông cảm với đồng minh Việt Nam cộng hoà.
Ông Hoàng Đức Nhã, cựu Bí thư kiêm Tham vụ Báo chí của Việt Nam cộng hoà, đã gọi điện cho đại sứ Hoa Kỳ để hỏi vì sao Hoa Kỳ không thông báo cho Việt Nam cộng hòa biết việc Trung Quốc điều quân đe dọa Hoàng Sa để chủ động đối phó, đại sứ Graham Martin trả lời rằng họ "không thể thấy được". Ông Nhã liền chất vấn Đại sứ Martin rằng, chuyện cả một hạm đội di chuyển mà người Mỹ "không thấy" thì quả là khó tin.
Theo Việt Nam Dân chủ cộng hòa, hành động của Trung Quốc là có tính toán từ trước và thấy được sự cố tình làm ngơ của Mỹ. Vì vậy, khi đó đại sứ Mỹ Graham Martin ở Sài Gòn đã bác bỏ yêu cầu cứu viện của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu và hạm đội Mỹ ở Thái Bình Dương đã được lệnh tránh xa quần đảo Hoàng Sa.
Đặc biệt, hành động của Trung Quốc diễn ra chỉ một ngày sau khi họ chấp nhận đàm phán với phía Việt Nam dân chủ cộng hòa về vấn đề vịnh Bắc Bộ, trong đó Trung Quốc yêu cầu được đặc quyền thăm dò trong một khu vực rộng 20.000 km2 trong vịnh Bắc Bộ do họ tự ý định ra (yêu cầu này sau đó bị Việt Nam dân chủ cộng hòa bác bỏ và đàm phán lâm vào bế tắc).
Bởi một chuỗi các sự kiện trên, năm 1975, khi Quân đội nhân dân Việt Nam mở chiến dịch Trường Sa và các đảo trên Biển Đông để thu hồi Trường Sa, họ đã ra công điện chỉ thị phải tiến hành khẩn trương để đề phòng "quân đội nước ngoài" có ý định chiếm quần đảo.
Sau khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc, Việt Nam đã tuyên bố chủ quyền đối với cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngày 15/3/1979, Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố Bị vong lục về vấn đề biên giới Việt - Trung, trong đó lên án việc Trung Quốc đánh chiếm trái phép quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Ngày 28/9/1979, Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố Sách trắng, giới thiệu 19 tài liệu chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa.
Việc này đã khiến Trung Quốc bất bình và bắt đầu một thời kỳ quan hệ căng thẳng giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay vẫn khẳng định chủ quyền đối với toàn bộ quần đảo Hoàng Sa và vùng lãnh hải liên quan trên Biển Đông.
Đức Toàn (Petrotimes) tổng hợp
_____________________________________
Related article: Hải chiến Hoàng Sa 19-1-1974 HỘ TỐNG HẠM NHẬT TẢO (HQ 1O) ĐI VÀO LỊCH SỬ
Ta thử đọc xem trang Petrotimes thuộc công ty dầu khí VN (Việt+) viết như thế nào về trận đánh đã ghi vào lịch sử 4000 năm chống xâm lược Tàu của dân tộc Việt Nam:Trận Hải Chiến Hoàng Sa 1974 của Hải Quân/ QLVNCH. Bài báo này tôi copy toàn bộ kể cả hình ảnh theo nguyên bản không sửa chữa, kiểm duyệt cho các bạn tham khảo (ngv)
*********
(Petrotimes) - Hải chiến Hoàng Sa là một trận chiến giữa Hải quân Việt Nam cộng hòa và Hải quân Trung Quốc từ 17 đến 19/1/1974 trên quần đảo Hoàng Sa. Từ nguồn tài liệu của sách, báo trong nước và nước ngoài, xuất bản từ 1974 đến 2004, Petrotimes sẽ giới thiệu với bạn đọc về toàn bộ sự kiện này nhân 40 năm Trung Quốc cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa:
Điều bất ngờ khi chạm trán đối phương
Ngày 16/1/1974, Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt (HQ-16) đưa một phái đoàn công binh Quân đoàn I của Việt Nam Cộng Hòa do Thiếu tá Hồng dẫn đầu (trong đó có một người Mỹ tên Kosh thuộc Văn phòng Tùy viên quân sự Hoa Kỳ tại Ðà Nẵng) ra thăm dò một số đảo Hoàng Sa để thiết lập một đường băng ngắn đã phát hiện hai ngư thuyền ngụy trang số 402 và số 407 của Hải quân Trung Quốc gần đảo Hữu Nhật (còn được gọi không chính xác là đảo Cam Tuyền), đồng thời phát hiện quân Trung Quốc chiếm đóng đảo Quang Hòa và cắm cờ Trung Quốc tại các đảo Hữu Nhật, Duy Mộng, Quang Ảnh (còn được gọi không chính xác là đảo Vĩnh Lạc).
Sau khi cấp báo về Bộ Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải tại Đà Nẵng, tàu HQ-16 bắn pháo hiệu yêu cầu các chiến hạm Trung Quốc rời lãnh hải Việt Nam. Các chiến hạm Trung Quốc không chấp thuận yêu cầu, và cũng dùng pháo hiệu yêu cầu phía Việt Nam cộng hòa rời lãnh hải Trung Quốc.
Ngày 17/1/1974, Khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ-4) đến Hoàng Sa, chở theo một toán người nhái (biệt hải) và một đội hải kích đổ bộ xuống Hữu Nhật, Duy Mộng, Quang Ảnh để nhổ cờ Trung Quốc, dựng cờ Việt Nam cộng hoà. Sau đó lính Việt Nam cộng hòa rút quân lên tàu. Theo hạm trưởng HQ-16, Trung tá Lê Văn Thự, toán biệt hải rời HQ-4 bằng xuồng cao su để lên HQ-16. Cùng ngày, hai tàu Liệp tiềm đĩnh loại Kronstad số 274 và 271 của Trung Quốc xuất hiện.
Bốn chiến hạm của Việt Nam Cộng hòa đã tham dự trận hải chiến Hoàng Sa bảo vệ lãnh thổ vào năm 1974
Trung Quốc nắm thế chủ động và dùng vũ lực
Đêm 17/1/1974, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai nhận báo cáo tình hình Hoàng Sa từ Trường Lý Lực, Cục phó Cục tác chiến Bộ Tổng tham mưu Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc. Sau đó Chu Ân Lai cùng với Diệp Kiếm Anh viết báo cáo gửi Mao Trạch Đông đề nghị phái quân ra quần đảo Hoàng Sa.
Mao Trạch Đông phê vào bản báo cáo của Chu Ân Lai, Diệp Kiếm Anh: “Đồng ý!”, và nói rằng, “trận này không thể không đánh”. Mao Trạch Đông giao cho Diệp Kiếm Anh và Đặng Tiểu Bình trực tiếp chỉ huy trận đánh tại quần đảo Hoàng Sa. Đây là trận đánh đầu tiên của Đặng Tiểu Bình khi mới được phục chức sau 7 năm đi "cải tạo".
Ngày 18/1/1974, Chu Ân Lai triệu tập cuộc họp Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc để thảo luận về tình hình Hoàng Sa và lập ra ban chuyên trách năm người để đối phó với các diễn biến có thể xảy ra tại Hoàng Sa. Ban chuyên trách gồm: Diệp Kiếm Anh (chủ nhiệm ban chuyên trách), Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều, Đặng Tiểu Bình và Trần Tích Liên. Ban chuyên trách nghe Phó Tư lệnh Hải quân Trung Quốc Tô Chấn Hoa báo cáo sau đó quyết định tấn công hạm đội Việt Nam Cộng hòa. Đồng thời, ban chuyên trách công bố bản hướng dẫn nhằm đánh lại các tuần dương hạm của Việt Nam Cộng hòa. Căn cứ vào bản hướng dẫn này, hải quân Trung Quốc lập kế hoạch chuẩn bị cho chiến dịch.
Hải quân Việt Nam Cộng Hòa muốn thể hiện sức mạnh
Ngày 18/1/1974, Đề đốc Lâm Ngươn Tánh, Tư lệnh phó Hải quân Việt Nam cộng hòa bay ra Bộ Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải tại Đà Nẵng để chỉ huy toàn bộ lực lượng tham chiến tại Hoàng Sa. Cũng trong sáng ngày 18 tháng 1 năm 1974, lực lượng tăng cường cho Hoàng Sa bao gồm Tuần dương hạm Trần Bình Trọng (HQ-5) và Hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ-10) có mặt tại trận địa. Do hải hành lâu ngày chưa kịp tu bổ, HQ-10 tham chiến với một máy không dùng được, chỉ còn một máy hoạt động. HQ-5 do Trung tá Phạm Trọng Quỳnh chỉ huy là soái hạm của Hải đoàn đặc nhiệm bao gồm 4 chiến hạm HQ-4,HQ-5,HQ-10,HQ-16. Đại tá Hải quân Hà Văn Ngạc ở trên HQ-5 là người trực tiếp chỉ huy Hải đoàn.
Khoảng xế trưa ngày 18/1, Đại tá Ngạc quyết định hải đoàn sẽ phô trương lực lượng bằng một cuộc thao diễn chiến thuật để tiến về phía đảo Quang Hòa với hy vọng có thể đổ bộ chiếm lại đảo một cách hoà bình như đã làm trước đây. Bốn chiến hạm theo đội hình hàng dọc, dẫn đầu là khu trục hạm HQ-4, theo sau là tuần dương hạm HQ-5 trương hiệu kỳ hải đội, thứ ba là tuần dương hạm HQ-16 và sau cùng là hộ tống hạm HQ-10, khởi hành từ nam đảo Hoàng Sa để tiến về đảo Quang Hòa. Khoảng cách giữa các chiến hạm là hai lần khoảng cách tiêu chuẩn (1000 yard).
Trên đường đến đảo Quang Hòa, Hải đoàn bị 2 chiến hạm Kronstad của Trung Quốc mang số hiệu 271 và 274 chặn đường. Hai chiếc chiến hạm khác nhỏ hơn mang số 389 và 396 vẫn ở sát bờ bắc đảo Quang Hòa. Chiến hạm 271 của trung Quốc và soái hạm HQ-5 trao đổi với nhau bằng đèn hiệu. Cả hai đều khẳng định đây là lãnh thổ của mình và yêu cầu đối phương rút lui. Để tránh đụng tàu, đại tá Ngạc đưa Hải đoàn trở về phía nam đảo Hoàng Sa để theo dõi các chiến hạm Trung Quốc khi đó quay về đóng tại phía bắc và tây bắc đảo Quang Hòa.
Thất bại ngay cuộc đổ bộ đầu tiên
Theo Trung tá Lê Văn Thự, hạm trưởng HQ-16, khoảng 10 giờ sáng ngày 18/1, Đại tá Hà Văn Ngạc ra lệnh cho ông đưa viên cố vấn Mỹ lên đảo Hoàng Sa sau đó cho toán biệt hải đổ bộ lên đảo Quang Hoà và một toán của HQ-16 lên giữ đảo Quang Ảnh. Sau khi đưa viên cố vấn Mỹ lên đảo Hoàng Sa, HQ-16 tiến đến gần đảo Quang Hòa, đổ bộ toán biệt hải lên đảo thì một tàu Trung Quốc xuất hiện, cản trước mũi, không cho HQ-16 tiến gần đến đảo. Hai tàu cọ vào nhau làm tàu Trung Quốc hư hại nhẹ.
Theo Trung tá Thự, tàu Trung Quốc mang số hiệu 271, dài chừng 70 mét, có súng tương đương với súng 76,2 ly, 40 ly, 20 ly và đại liên 12,7 của HQ-16. HQ-16 chuyển hướng sau đó cho biệt hải dùng xuồng cao su tấn công ở phía nam của đảo Quang Hoà từ khoảng cách 1-2 hải lý. Cuộc đổ bộ thất bại. Một thiếu úy biệt hải bị bắn chết. Toán biệt hải trở về HQ-16.
Chiều ngày 18/1, khoảng 18 giờ, Đại tá Ngạc gọi máy cho Trung tá Lê Văn Thự và ra lệnh cho ông chỉ huy HQ-10, bằng mọi giá phải đổ bộ cho được toán biệt hải lên đảo Quang Hoà. Sau khi nhận lệnh này, HQ-16 không còn liên lạc được với đại tá Ngạc trên soái hạm HQ-5, tàu HQ-4 hay Bộ Tư lệnh Hải quân Vùng I Duyên Hải do máy liên lạc âm thoại giai tần đơn bị Trung Quốc phá sóng. HQ-16 chỉ còn liên lạc được với HQ-10. Những ngày sau đó do bị thương khi hải chiến với tàu Trung Quốc, HQ-16 không thể chấp hành lệnh đổ bộ của đại tá Ngạc.
Vào khoảng 23 giờ ngày 18/1, Đề đốc Lâm Ngươn Tánh ban hành Lệnh hành quân Hoàng Sa 1 nhằm chiếm lại một cách hòa bình các đảo Hữu Nhật, Quang Hòa, Duy Mộng, Quang Ảnh. Đại tá Hà Văn Ngạc chia lực lượng tham chiến thành hai phân đoàn đặc nhiệm: phân đoàn I là chủ lực gồm khu trục hạm HQ-4 và tuần dương hạm HQ-5 do hạm trưởng khu trục hạm HQ-4 chỉ huy; phân đoàn II có nhiệm vụ yểm trợ gồm tuần dương hạm HQ-16 và hộ tống hạm HQ-10 do hạm trưởng tuần dương hạm HQ-16 chỉ huy.
Theo tài liệu của Tổng cục Chiến tranh Chính trị và tường thuật của Đại tá Hà Văn Ngạc, 8 giờ 30 ngày 19/1, hai nhóm biệt hải của Việt Nam cộng hòa gồm 74 người do Ðại úy Nguyễn Minh Cảnh chỉ huy tiếp tục đổ quân vào đảo Quang Hòa. Đại tá Ngạc chỉ thị lực lượng này không được nổ súng trước và có nhiệm vụ yêu cầu toán quân Trung Quốc rời đảo. Trên đảo đang có một đại đội của Hải quân Trung Quốc trấn giữ. Theo báo cáo của biệt đội trưởng, chiến sĩ Ðỗ Văn Long là người đầu tiên tiến vào đảo và vừa nổ súng vừa tiến vào trong nên đã bị hỏa lực trong bờ bắn tử thương ngay tại bãi biển. Sau đó Trung úy Lê Văn Ðơn cũng tử thương. Việc đổ bộ thất bại. Hai toán biệt hải được lệnh rút về HQ-5. Tổng số thương vong của Hải quân Việt Nam cộng hòa gồm 2 người chết và 2 bị thương.
Quyết định nổ súng trước
Việc đổ bộ thất bại được báo cáo ngay về Bộ Tư lệnh Hải quân vùng I duyên hải. Chừng ít phút sau đó (vào khoảng 9 giờ 30 sáng) phó đô đốc Hải quân Việt nam cộng hòa Hồ Văn Kỳ Thoại theo chỉ thị của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, ra khẩu lệnh vắn tắt "khai hỏa" cho Đại tá Ngạc trên băng siêu tần số SSB (single side band) và không có chi tiết gì khác hơn.
Ban đầu đại tá Ngạc dự định cho hạm đội bắn pháo lên đảo để dọn đường cho lính thủy đổ bộ. Sau đó do các hạm trưởng khác phản đối, đại tá Ngạc quyết định tiêu diệt các tàu Trung Quốc trước. Lúc 10 giờ 22 cùng ngày, 2 chiến hạm của phía Việt Nam Cộng hòa là HQ-16 và HQ-10 tiến vào lòng chảo Hoàng Sa theo thế gọng kìm, nổ súng trước vào các tàu chiến Trung Quốc đang neo đậu trong khu vực này. Các tàu Trung Quốc tích cực di chuyển và phản kích dữ dội. Hai chiến hạm còn lại của Việt Nam cộng hòa là HQ-4 và HQ-5 cũng tiến vào lòng chảo, tham chiến từ phía tây nam. Vì tầm quan sát rất hạn chế nên từ Tuần dương hạm HQ-5 không quan sát được Tuần dương hạm HQ-16 và Hộ tống hạm HQ-10. Do máy liên lạc bị Trung Quốc phá sóng nên Soái hạm chỉ có thể liên lạc với các chiến hạm còn lại bằng máy PRC 25.
Sau vài phút tác chiến, HQ-4 chỉ bị thiệt hại nhẹ nhưng do trở ngại khả năng pháo kích và tàu cơ động chậm nên không phát huy được hoả lực, buộc phải lùi ra xa. Sau khoảng 15 phút giao chiến, HQ-10 bốc cháy tại chỗ rồi chìm, HQ-16 trúng đạn pháo 127 ly của HQ-5 xuyên thủng hầm máy, bị nghiêng trên 10 độ phải rút lui về phía tây. Theo trưởng khối hành quân HQ-5 Bùi Ngọc Nở, HQ-5 sau 15 phút chiến đấu bị trúng đạn đại bác của địch khiến các khẩu pháo 127 ly và 40 ly bị vô hiệu hoá.
Khoảng 11 giờ 25, sau khi nhận được tin HQ-16 trúng đạn và mất liên lạc với HQ-10, đồng thời phát hiện một chiến hạm của Trung Quốc loại có trang bị mỗi bên một dàn phóng hỏa tiễn kép loại hải đối hải, cách xa chừng 8 đến 10 hải lý đang tiến vào vùng giao tranh với một tốc độ cao, Đại tá Ngạc ra lệnh cho HQ-4 và HQ-5 rút lui về phía đông nam, hướng về vịnh Subic. Philippines. Vì ông nghĩ rằng, Hải đội không thể để bị thiệt hại một khu trục hạm trong khi Hải quân Việt Nam Cộng Hòa chỉ có tổng cộng 2 chiếc.
Nhưng theo trung tá Thự, đại tá Ngạc ra lệnh rút lui vì "lo sợ phản lực cơ và tiềm thủy đĩnh Trung cộng tham chiến" . Ông cho rằng chuyện phía đông xuất hiện một chiến hạm Trung Quốc có trang bị hỏa tiễn” chỉ là tưởng tượng vì "cách xa chừng 8 đến 10 hải lý thì khó mà nhìn thấy được mỗi bên một giàn phóng hỏa tiễn". Các tàu phía Trung Quốc cũng bị hư hại nặng, một tàu phải ủi bãi, một tàu bốc cháy, không đủ sức đuổi theo.
Trong thời gian xảy ra chiến sự, Bộ tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng Hòa nhận được thông báo của Văn phòng Tùy viên quân sự Hoa Kỳ (DAO) tại Sài Gòn, cho biết radar Đệ thất Hạm đội ghi nhận một số tàu chiến và chiến đấu cơ từ Hải Nam đang tiến về phía Hoàng Sa. Số tàu chiến chi viện của Trung Quốc vẫn chưa được xác định chính xác nhưng có thể bao gồm 2 tàu chống ngầm số hiệu 281 và 282 thuộc lớp tàu Hải Nam.
Phó đô đốc Hải quân Việt Nam Cộng Hòa Hồ Văn Kỳ Thoại cho biết "Chúng tôi phải quyết định rút lui khi cố vấn Hoa Kỳ cho biết 17 chiến hạm của Trung Quốc đang trên đường tới khu vực và khả năng là sẽ có phi cơ phản lực tới từ đảo Hải Nam". Bộ tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng Hòa sau đó yêu cầu Hạm đội 7 trợ giúp, nhưng phía Mỹ từ chối, thậm chí Hạm đội 7 từ chối cả việc cứu những thủy thủ của tàu HQ-10 đang trôi dạt trên biển. Sau khi Bộ tư lệnh cân nhắc tương quan lực lượng, các chiến hạm Việt Nam cộng hòa được lệnh rút bỏ quần đảo Hoàng Sa.
Khoảng 14 giờ 30 ngày 19/01/1974 khi ngang qua đảo Tri Tôn thì HQ-5 được lệnh của Tư lệnh hải quân từ Ðà Nẵng: "HQ-4 và HQ-5 phải quay trở lại Hoàng Sa, nếu cần thì ủi bãi". Nhưng không lâu sau đó có một lệnh tiếp theo từ Ðà Nẵng, cho HQ-4 và HQ-5 trở về lại Ðà Nẵng. Trên đường rút lui, HQ-16 đưa 8 quân nhân lên giữ đảo Hoàng Sa.
Năm 1951, Tại Hội nghị San Francisco về Hiệp ước Hoà bình với Nhật Bản, Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Quốc gia Việt Nam khi đó là Trần Văn Hữu tuyên bố: cả hai quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa đều thuộc lãnh thổ Việt Nam; và tuyên bố này không gặp phải kháng nghị hay bảo lưu nào từ 51 nước tham dự hội nghị.
Sau khi Pháp rút khỏi Đông Dương, Việt Nam cộng hòa tiếp nhận chủ quyền toàn bộ quần đảo này từ Quốc gia Việt Nam nhưng một phần quần đảo đã bị Cộng hòa nhân dân Trung Hoa chiếm giữ năm 1956 khi người Pháp rút đi, còn quân đội Việt Nam cộng hòa chưa kịp trấn giữ. Việt Nam Cộng hòa chỉ chiếm giữ và thực hiện chủ quyền được một phần quần đảo cho đến khi cuộc hải chiến xảy ra. Sau trận chiến, Trung Quốc đã chiếm đóng toàn bộ quần đảo Hoàng Sa cho đến nay.
Xung đột xảy ra trong bối cảnh nào?
Quần đảo Hoàng Sa gồm hai nhóm đảo. Nhóm đảo mà Việt Nam cộng hòa bảo vệ và thực hiện được chủ quyền là nhóm Nguyệt Thiềm hay Trăng Khuyết, Lưỡi Liềm (Crescent Group); nhóm còn lại là nhóm An Vĩnh hay nhóm Bắc đảo (Amphitrite Group) (bấy giờ quen gọi là "Tuyên Đức" - tên Trung Quốc của nhóm An Vĩnh). Dưới thời Việt Nam cộng hòa đã có đài khí tượng trên đảo Hoàng Sa do Pháp xây, trực thuộc Ty khí tượng Đà Nẵng và được bảo vệ bởi một tiểu đoàn thủy quân lục chiến.
Năm 1956, Hải quân Trung Quốc chiếm đóng đảo Phú Lâm (Woody Island) thuộc nhóm An Vĩnh.
Năm 1958, Trung Quốc cho công bố bản Tuyên ngôn Lãnh hải 4 điểm về việc mở rộng vùng lãnh hải lên 12 hải lý, tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối với các quần đảo và phạm vi 12 lãnh hải biển tương ứng với các đảo này, bao gồm Nam Sa (tức Trường Sa), Đài Loan, Tây Sa (tức Hoàng Sa), Trung Sa (tức bãi Macclesfield), quần đảo Bành Hồ (Pescadores).
Ngày 22/9/1958, báo Nhân Dân đăng công hàm của Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Quốc vụ Viện Trung Quốc, ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4/9/1958 của chính phủ Trung Quốc quyết định về hải phận 12 hải lý của Trung Quốc.
Năm 1961, Chính phủ Việt Nam cộng hòa ban hành sắc lệnh khẳng định chủ quyền Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam của Việt Nam cộng hòa.
Trong thời gian 1964-1970, Hải quân Trung Quốc và Hải quân Việt Nam cộng hòa chạm súng liên tục trên hải phận Hoàng Sa nhưng không xảy ra thương vong. Trong thời điểm đó, Việt Nam cộng hòa cũng thiết lập một sân bay nhỏ tại đảo Hoàng Sa.
Theo giáo sư Lý Hiểu Binh (Xiaobing Li), Đại học Central Oklahoma trong bài viết gửi BBC cho rằng, từ năm 1969, Trung Quốc bắt đầu giảm viện trợ quân sự và dân sự cho Việt Nam dân chủ cộng hòa. Liên Xô thay thế Trung Quốc trở thành quốc gia hỗ trợ kinh tế, quân sự nhiều nhất cho Bắc Việt Nam. Điều này khiến quan hệ giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Trung Quốc ngày càng lạnh nhạt, thay vào đó Bắc Việt Nam xem Liên Xô là đồng minh quan trọng nhất. Cùng thời điểm này, mối quan hệ giữa Liên Xô và Trung Quốc xấu đi. Trung Quốc xem Hoa Kỳ là cường quốc đang mất dần ảnh hưởng vì thất bại của họ tại Việt Nam, còn Liên Xô bị Trung Quốc xem là "chủ nghĩa đế quốc Xô viết" nổi lên thành mối đe dọa hàng đầu đối với Trung Quốc.
Một tài liệu của CIA ngày 12/8/1969 nhận định: “Gần như căng thẳng Trung – Xô sẽ không thể nào giảm trong vòng hai ba năm tới. Vì quyền lợi quốc gia xung đột nhau, vì sự cạnh tranh nhằm lãnh đạo phong trào cộng sản quốc tế, và sự lo sợ có thực về ý định của nhau sẽ khiến việc tiếp cận không thể xảy ra. Vấn đề biên giới cũng sẽ không dễ giải quyết. Từ đầu tháng 3/1969 bắt đầu có nhiều cuộc xung đột quân sự quy mô nhỏ dọc biên giới Trung - Xô. Cả hai nước ở tình trạng chiến tranh có thể nổ ra bất cứ lúc nào. Sang đầu năm 1970, Liên Xô triển khai tới 48 sư đoàn, tương đương gần một triệu quân dọc biên giới Trung Quốc.
Còn Trung Quốc tập trung 6 triệu quân tại biên giới với Liên Xô. Thậm chí còn có nguồn tin cho rằng, lãnh đạo Liên Xô đã tính đến việc dùng vũ khí nguyên tử tấn công Trung Quốc nếu cần. Mối đe dọa từ Liên Xô đã thúc đẩy lãnh đạo Trung Quốc bình thường hóa quan hệ Mỹ - Trung vào năm 1973”.
Năm 1970, Hoa Kỳ và Nhật Bản ký Hiệp ước trao trả Okinawa (Okinawa Reversion Treaty) trao trả quần đảo Senkaku (Sento Shosho hay Senkaku Retto của Nhật Bản) về dưới chủ quyền của Nhật Bản với sự phản đối của Đài Loan và Trung Quốc; và cùng năm, Đô đốc Elmo Zumwalt, cựu Tham mưu trưởng Hải quân Hoa Kỳ họp báo tuyên bố tại Guam rằng, Hoàng Sa và Trường Sa không nằm trong chiến lược triển khai các hải đảo tiền đồn của Đệ thất Hạm đội Hoa Kỳ (Hạm đội 7). Theo nhận định của Hải quân Việt Nam cộng hòa thì đây là “sự kiện trao đổi giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc và là nguy cơ cho Việt Nam cộng hòa trong việc bảo vệ Hoàng Sa”.
Năm 1971, Hải quân Trung Quốc và Hải quân Việt Nam cộng hòa tiếp tục chạm súng trên hải phận Hoàng Sa. Những năm cuối của cuộc Chiến tranh Việt Nam, vì nhu cầu chiến trường, tiểu đoàn thủy quân lục chiến của Việt Nam cộng hòa tại Hoàng Sa được đưa vào đất liền, chỉ còn một trung đội địa phương quân trấn giữ nhóm đảo Nguyệt Thiềm.
Tháng 2 năm 1972, Tổng thống Mỹ Richard Nixon tới Trung Quốc hội kiến Mao Trạch Đông. Mỹ và Trung Quốc đưa ra tuyên bố chung phản đối "bá quyền" tại châu Á và Thái Bình Dương. Năm 1973, Trung Quốc và Mỹ mở văn phòng liên lạc ở thủ đô mỗi nước mở đầu cho việc bình thường hóa quan hệ giữa hai nước.
Năm 1973, với Hiệp định Paris, Hoa Kỳ và Hạm đội 7 rút quân và thiết bị của Hoa Kỳ ra khỏi khu vực quần đảo Hoàng Sa. Như vậy Hoa Kỳ đã xem việc bảo vệ quần đảo này là việc riêng của Việt Nam cộng hòa.
Ngày 11/1/1974 Bộ Ngoại giao Trung Quốc ra tuyên bố Hoàng Sa, Trường Sa là lãnh thổ của Trung Quốc và tố cáo Việt Nam cộng hòa chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sau đó, Việt Nam cộng hòa ra tuyên bố khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa là lãnh thổ của Việt Nam và bác bỏ những cáo buộc của Trung Quốc.
Trước tình hình đó, Bộ tư lệnh Hải quân Việt Nam cộng hòa quyết định thiết lập một phi trường trên đảo Hoàng Sa có khả năng chuyên chở bằng máy bay hạng nặng C-47 Caribou để chuyển quân nhanh ra nhóm đảo Nguyệt Thiềm. Ngày 16/1/1974, khi một phái đoàn của Quân lực Việt Nam cộng hòa thăm dò một số đảo Hoàng Sa trong việc chuẩn bị xây dựng sân bay nói trên thì phát hiện ra sự hiện diện của Hải quân Trung Quốc và giao tranh xảy ra sau đó.
Về vũ khí trên các tàu, 2 chiếc Tuần dương hạm của Việt Nam Cộng hòa trang bị 1 khẩu pháo 127 ly (5 inch) đặt tại boong trước, đằng sau của khẩu đại pháo là giàn pháo 40 ly 2 nòng nằm một tầng cao hơn ngay dưới đài chỉ huy. Hai bên hông đài chỉ huy là các khẩu đại bác 20 ly đôi (2 nòng). Tại boong sau có các khẩu đại bác 40 ly đơn, một bên tả hạm, một bên hữu hạm. Vũ khí chính của HQ-10 là khẩu pháo 76,2 ly đặt tại sân trước, 2 đại bác 40 ly đơn tại boong giữa và 4 đại bác 20 ly đặt hai bên hông đài chỉ huy và boong sau. Còn tàu khu trục HQ-4 được trang bị radar phòng không (DER - Destroyer Escort Radar) và hai giàn pháo 76,2 ly có radar điều khiển (radar control) với khả năng tự dò tìm góc độ và tầm xa để "khóa chặt" (lock on) mục tiêu. Trong khi đó, tàu chống ngầm lớp Krondstadt (Kronshtadt class submarine chaser) của Trung Quốc trang bị 1 pháo 85 ly và 2 pháo 37 ly điều khiển bằng tay.
Như vậy, xét tương quan lực lượng, mỗi bên có 4 chiến hạm trực tiếp tham chiến. Việt Nam cộng hòa có ưu thế là các chiến hạm lớn, trang bị pháo và súng lớn hơn, mạnh hơn, nhiều hơn so với tàu Trung Quốc. Tuy nhiên, nhược điểm của các tàu này là cồng kềnh, vận chuyển chậm. Các chỉ huy Việt Nam Cộng hòa cũng không lập sẵn kế hoạch cơ động tác chiến nếu có nổ súng, dẫn đến việc tác chiến bị động và 2 tàu trong đội hình (HQ-5 và HQ-16) đã bắn nhầm vào nhau.
Đêm 17/1/1974, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai nhận báo cáo tình hình Hoàng Sa từ Trường Lý Lực, Cục phó Cục tác chiến Bộ Tổng tham mưu Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc. Sau đó Chu Ân Lai cùng với Diệp Kiếm Anh viết báo cáo gửi Mao Trạch Đông đề nghị phái quân ra quần đảo Hoàng Sa.
Mao Trạch Đông phê vào bản báo cáo của Chu Ân Lai, Diệp Kiếm Anh: “Đồng ý!”, và nói rằng, “trận này không thể không đánh”. Mao Trạch Đông giao cho Diệp Kiếm Anh và Đặng Tiểu Bình trực tiếp chỉ huy trận đánh tại quần đảo Hoàng Sa. Đây là trận đánh đầu tiên của Đặng Tiểu Bình khi mới được phục chức sau 7 năm đi "cải tạo".
Ngày 18/1/1974, Chu Ân Lai triệu tập cuộc họp Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc để thảo luận về tình hình Hoàng Sa và lập ra ban chuyên trách năm người để đối phó với các diễn biến có thể xảy ra tại Hoàng Sa. Ban chuyên trách gồm: Diệp Kiếm Anh (chủ nhiệm ban chuyên trách), Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều, Đặng Tiểu Bình và Trần Tích Liên. Ban chuyên trách nghe Phó Tư lệnh Hải quân Trung Quốc Tô Chấn Hoa báo cáo sau đó quyết định tấn công hạm đội Việt Nam Cộng hòa. Đồng thời, ban chuyên trách công bố bản hướng dẫn nhằm đánh lại các tuần dương hạm của Việt Nam Cộng hòa. Căn cứ vào bản hướng dẫn này, hải quân Trung Quốc lập kế hoạch chuẩn bị cho chiến dịch.
Hải quân Việt Nam Cộng Hòa muốn thể hiện sức mạnh
Ngày 18/1/1974, Đề đốc Lâm Ngươn Tánh, Tư lệnh phó Hải quân Việt Nam cộng hòa bay ra Bộ Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải tại Đà Nẵng để chỉ huy toàn bộ lực lượng tham chiến tại Hoàng Sa. Cũng trong sáng ngày 18 tháng 1 năm 1974, lực lượng tăng cường cho Hoàng Sa bao gồm Tuần dương hạm Trần Bình Trọng (HQ-5) và Hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ-10) có mặt tại trận địa. Do hải hành lâu ngày chưa kịp tu bổ, HQ-10 tham chiến với một máy không dùng được, chỉ còn một máy hoạt động. HQ-5 do Trung tá Phạm Trọng Quỳnh chỉ huy là soái hạm của Hải đoàn đặc nhiệm bao gồm 4 chiến hạm HQ-4,HQ-5,HQ-10,HQ-16. Đại tá Hải quân Hà Văn Ngạc ở trên HQ-5 là người trực tiếp chỉ huy Hải đoàn.
Liệp tiềm đĩnh (tàu chống ngầm) số 274 của Trung Quốc chụp từ tàu của Việt Nam Cộng Hòa trước khi nổ súng
Trên đường đến đảo Quang Hòa, Hải đoàn bị 2 chiến hạm Kronstad của Trung Quốc mang số hiệu 271 và 274 chặn đường. Hai chiếc chiến hạm khác nhỏ hơn mang số 389 và 396 vẫn ở sát bờ bắc đảo Quang Hòa. Chiến hạm 271 của trung Quốc và soái hạm HQ-5 trao đổi với nhau bằng đèn hiệu. Cả hai đều khẳng định đây là lãnh thổ của mình và yêu cầu đối phương rút lui. Để tránh đụng tàu, đại tá Ngạc đưa Hải đoàn trở về phía nam đảo Hoàng Sa để theo dõi các chiến hạm Trung Quốc khi đó quay về đóng tại phía bắc và tây bắc đảo Quang Hòa.
Thất bại ngay cuộc đổ bộ đầu tiên
Theo Trung tá Lê Văn Thự, hạm trưởng HQ-16, khoảng 10 giờ sáng ngày 18/1, Đại tá Hà Văn Ngạc ra lệnh cho ông đưa viên cố vấn Mỹ lên đảo Hoàng Sa sau đó cho toán biệt hải đổ bộ lên đảo Quang Hoà và một toán của HQ-16 lên giữ đảo Quang Ảnh. Sau khi đưa viên cố vấn Mỹ lên đảo Hoàng Sa, HQ-16 tiến đến gần đảo Quang Hòa, đổ bộ toán biệt hải lên đảo thì một tàu Trung Quốc xuất hiện, cản trước mũi, không cho HQ-16 tiến gần đến đảo. Hai tàu cọ vào nhau làm tàu Trung Quốc hư hại nhẹ.
Theo Trung tá Thự, tàu Trung Quốc mang số hiệu 271, dài chừng 70 mét, có súng tương đương với súng 76,2 ly, 40 ly, 20 ly và đại liên 12,7 của HQ-16. HQ-16 chuyển hướng sau đó cho biệt hải dùng xuồng cao su tấn công ở phía nam của đảo Quang Hoà từ khoảng cách 1-2 hải lý. Cuộc đổ bộ thất bại. Một thiếu úy biệt hải bị bắn chết. Toán biệt hải trở về HQ-16.
Chiều ngày 18/1, khoảng 18 giờ, Đại tá Ngạc gọi máy cho Trung tá Lê Văn Thự và ra lệnh cho ông chỉ huy HQ-10, bằng mọi giá phải đổ bộ cho được toán biệt hải lên đảo Quang Hoà. Sau khi nhận lệnh này, HQ-16 không còn liên lạc được với đại tá Ngạc trên soái hạm HQ-5, tàu HQ-4 hay Bộ Tư lệnh Hải quân Vùng I Duyên Hải do máy liên lạc âm thoại giai tần đơn bị Trung Quốc phá sóng. HQ-16 chỉ còn liên lạc được với HQ-10. Những ngày sau đó do bị thương khi hải chiến với tàu Trung Quốc, HQ-16 không thể chấp hành lệnh đổ bộ của đại tá Ngạc.
Vào khoảng 23 giờ ngày 18/1, Đề đốc Lâm Ngươn Tánh ban hành Lệnh hành quân Hoàng Sa 1 nhằm chiếm lại một cách hòa bình các đảo Hữu Nhật, Quang Hòa, Duy Mộng, Quang Ảnh. Đại tá Hà Văn Ngạc chia lực lượng tham chiến thành hai phân đoàn đặc nhiệm: phân đoàn I là chủ lực gồm khu trục hạm HQ-4 và tuần dương hạm HQ-5 do hạm trưởng khu trục hạm HQ-4 chỉ huy; phân đoàn II có nhiệm vụ yểm trợ gồm tuần dương hạm HQ-16 và hộ tống hạm HQ-10 do hạm trưởng tuần dương hạm HQ-16 chỉ huy.
Theo tài liệu của Tổng cục Chiến tranh Chính trị và tường thuật của Đại tá Hà Văn Ngạc, 8 giờ 30 ngày 19/1, hai nhóm biệt hải của Việt Nam cộng hòa gồm 74 người do Ðại úy Nguyễn Minh Cảnh chỉ huy tiếp tục đổ quân vào đảo Quang Hòa. Đại tá Ngạc chỉ thị lực lượng này không được nổ súng trước và có nhiệm vụ yêu cầu toán quân Trung Quốc rời đảo. Trên đảo đang có một đại đội của Hải quân Trung Quốc trấn giữ. Theo báo cáo của biệt đội trưởng, chiến sĩ Ðỗ Văn Long là người đầu tiên tiến vào đảo và vừa nổ súng vừa tiến vào trong nên đã bị hỏa lực trong bờ bắn tử thương ngay tại bãi biển. Sau đó Trung úy Lê Văn Ðơn cũng tử thương. Việc đổ bộ thất bại. Hai toán biệt hải được lệnh rút về HQ-5. Tổng số thương vong của Hải quân Việt Nam cộng hòa gồm 2 người chết và 2 bị thương.
Quyết định nổ súng trước
Việc đổ bộ thất bại được báo cáo ngay về Bộ Tư lệnh Hải quân vùng I duyên hải. Chừng ít phút sau đó (vào khoảng 9 giờ 30 sáng) phó đô đốc Hải quân Việt nam cộng hòa Hồ Văn Kỳ Thoại theo chỉ thị của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, ra khẩu lệnh vắn tắt "khai hỏa" cho Đại tá Ngạc trên băng siêu tần số SSB (single side band) và không có chi tiết gì khác hơn.
Ban đầu đại tá Ngạc dự định cho hạm đội bắn pháo lên đảo để dọn đường cho lính thủy đổ bộ. Sau đó do các hạm trưởng khác phản đối, đại tá Ngạc quyết định tiêu diệt các tàu Trung Quốc trước. Lúc 10 giờ 22 cùng ngày, 2 chiến hạm của phía Việt Nam Cộng hòa là HQ-16 và HQ-10 tiến vào lòng chảo Hoàng Sa theo thế gọng kìm, nổ súng trước vào các tàu chiến Trung Quốc đang neo đậu trong khu vực này. Các tàu Trung Quốc tích cực di chuyển và phản kích dữ dội. Hai chiến hạm còn lại của Việt Nam cộng hòa là HQ-4 và HQ-5 cũng tiến vào lòng chảo, tham chiến từ phía tây nam. Vì tầm quan sát rất hạn chế nên từ Tuần dương hạm HQ-5 không quan sát được Tuần dương hạm HQ-16 và Hộ tống hạm HQ-10. Do máy liên lạc bị Trung Quốc phá sóng nên Soái hạm chỉ có thể liên lạc với các chiến hạm còn lại bằng máy PRC 25.
Sau vài phút tác chiến, HQ-4 chỉ bị thiệt hại nhẹ nhưng do trở ngại khả năng pháo kích và tàu cơ động chậm nên không phát huy được hoả lực, buộc phải lùi ra xa. Sau khoảng 15 phút giao chiến, HQ-10 bốc cháy tại chỗ rồi chìm, HQ-16 trúng đạn pháo 127 ly của HQ-5 xuyên thủng hầm máy, bị nghiêng trên 10 độ phải rút lui về phía tây. Theo trưởng khối hành quân HQ-5 Bùi Ngọc Nở, HQ-5 sau 15 phút chiến đấu bị trúng đạn đại bác của địch khiến các khẩu pháo 127 ly và 40 ly bị vô hiệu hoá.
Khoảng 11 giờ 25, sau khi nhận được tin HQ-16 trúng đạn và mất liên lạc với HQ-10, đồng thời phát hiện một chiến hạm của Trung Quốc loại có trang bị mỗi bên một dàn phóng hỏa tiễn kép loại hải đối hải, cách xa chừng 8 đến 10 hải lý đang tiến vào vùng giao tranh với một tốc độ cao, Đại tá Ngạc ra lệnh cho HQ-4 và HQ-5 rút lui về phía đông nam, hướng về vịnh Subic. Philippines. Vì ông nghĩ rằng, Hải đội không thể để bị thiệt hại một khu trục hạm trong khi Hải quân Việt Nam Cộng Hòa chỉ có tổng cộng 2 chiếc.
Nhưng theo trung tá Thự, đại tá Ngạc ra lệnh rút lui vì "lo sợ phản lực cơ và tiềm thủy đĩnh Trung cộng tham chiến" . Ông cho rằng chuyện phía đông xuất hiện một chiến hạm Trung Quốc có trang bị hỏa tiễn” chỉ là tưởng tượng vì "cách xa chừng 8 đến 10 hải lý thì khó mà nhìn thấy được mỗi bên một giàn phóng hỏa tiễn". Các tàu phía Trung Quốc cũng bị hư hại nặng, một tàu phải ủi bãi, một tàu bốc cháy, không đủ sức đuổi theo.
Trong thời gian xảy ra chiến sự, Bộ tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng Hòa nhận được thông báo của Văn phòng Tùy viên quân sự Hoa Kỳ (DAO) tại Sài Gòn, cho biết radar Đệ thất Hạm đội ghi nhận một số tàu chiến và chiến đấu cơ từ Hải Nam đang tiến về phía Hoàng Sa. Số tàu chiến chi viện của Trung Quốc vẫn chưa được xác định chính xác nhưng có thể bao gồm 2 tàu chống ngầm số hiệu 281 và 282 thuộc lớp tàu Hải Nam.
Phó đô đốc Hải quân Việt Nam Cộng Hòa Hồ Văn Kỳ Thoại cho biết "Chúng tôi phải quyết định rút lui khi cố vấn Hoa Kỳ cho biết 17 chiến hạm của Trung Quốc đang trên đường tới khu vực và khả năng là sẽ có phi cơ phản lực tới từ đảo Hải Nam". Bộ tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng Hòa sau đó yêu cầu Hạm đội 7 trợ giúp, nhưng phía Mỹ từ chối, thậm chí Hạm đội 7 từ chối cả việc cứu những thủy thủ của tàu HQ-10 đang trôi dạt trên biển. Sau khi Bộ tư lệnh cân nhắc tương quan lực lượng, các chiến hạm Việt Nam cộng hòa được lệnh rút bỏ quần đảo Hoàng Sa.
Khoảng 14 giờ 30 ngày 19/01/1974 khi ngang qua đảo Tri Tôn thì HQ-5 được lệnh của Tư lệnh hải quân từ Ðà Nẵng: "HQ-4 và HQ-5 phải quay trở lại Hoàng Sa, nếu cần thì ủi bãi". Nhưng không lâu sau đó có một lệnh tiếp theo từ Ðà Nẵng, cho HQ-4 và HQ-5 trở về lại Ðà Nẵng. Trên đường rút lui, HQ-16 đưa 8 quân nhân lên giữ đảo Hoàng Sa.
Vì sao xảy ra Hải chiến Hoàng Sa 1974?
Năm 1951, Tại Hội nghị San Francisco về Hiệp ước Hoà bình với Nhật Bản, Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Quốc gia Việt Nam khi đó là Trần Văn Hữu tuyên bố: cả hai quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa đều thuộc lãnh thổ Việt Nam; và tuyên bố này không gặp phải kháng nghị hay bảo lưu nào từ 51 nước tham dự hội nghị.
Sau khi Pháp rút khỏi Đông Dương, Việt Nam cộng hòa tiếp nhận chủ quyền toàn bộ quần đảo này từ Quốc gia Việt Nam nhưng một phần quần đảo đã bị Cộng hòa nhân dân Trung Hoa chiếm giữ năm 1956 khi người Pháp rút đi, còn quân đội Việt Nam cộng hòa chưa kịp trấn giữ. Việt Nam Cộng hòa chỉ chiếm giữ và thực hiện chủ quyền được một phần quần đảo cho đến khi cuộc hải chiến xảy ra. Sau trận chiến, Trung Quốc đã chiếm đóng toàn bộ quần đảo Hoàng Sa cho đến nay.
Xung đột xảy ra trong bối cảnh nào?
Quần đảo Hoàng Sa gồm hai nhóm đảo. Nhóm đảo mà Việt Nam cộng hòa bảo vệ và thực hiện được chủ quyền là nhóm Nguyệt Thiềm hay Trăng Khuyết, Lưỡi Liềm (Crescent Group); nhóm còn lại là nhóm An Vĩnh hay nhóm Bắc đảo (Amphitrite Group) (bấy giờ quen gọi là "Tuyên Đức" - tên Trung Quốc của nhóm An Vĩnh). Dưới thời Việt Nam cộng hòa đã có đài khí tượng trên đảo Hoàng Sa do Pháp xây, trực thuộc Ty khí tượng Đà Nẵng và được bảo vệ bởi một tiểu đoàn thủy quân lục chiến.
Năm 1956, Hải quân Trung Quốc chiếm đóng đảo Phú Lâm (Woody Island) thuộc nhóm An Vĩnh.
Năm 1958, Trung Quốc cho công bố bản Tuyên ngôn Lãnh hải 4 điểm về việc mở rộng vùng lãnh hải lên 12 hải lý, tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối với các quần đảo và phạm vi 12 lãnh hải biển tương ứng với các đảo này, bao gồm Nam Sa (tức Trường Sa), Đài Loan, Tây Sa (tức Hoàng Sa), Trung Sa (tức bãi Macclesfield), quần đảo Bành Hồ (Pescadores).
Ngày 22/9/1958, báo Nhân Dân đăng công hàm của Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Quốc vụ Viện Trung Quốc, ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4/9/1958 của chính phủ Trung Quốc quyết định về hải phận 12 hải lý của Trung Quốc.
Năm 1961, Chính phủ Việt Nam cộng hòa ban hành sắc lệnh khẳng định chủ quyền Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam của Việt Nam cộng hòa.
Trong thời gian 1964-1970, Hải quân Trung Quốc và Hải quân Việt Nam cộng hòa chạm súng liên tục trên hải phận Hoàng Sa nhưng không xảy ra thương vong. Trong thời điểm đó, Việt Nam cộng hòa cũng thiết lập một sân bay nhỏ tại đảo Hoàng Sa.
Theo giáo sư Lý Hiểu Binh (Xiaobing Li), Đại học Central Oklahoma trong bài viết gửi BBC cho rằng, từ năm 1969, Trung Quốc bắt đầu giảm viện trợ quân sự và dân sự cho Việt Nam dân chủ cộng hòa. Liên Xô thay thế Trung Quốc trở thành quốc gia hỗ trợ kinh tế, quân sự nhiều nhất cho Bắc Việt Nam. Điều này khiến quan hệ giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Trung Quốc ngày càng lạnh nhạt, thay vào đó Bắc Việt Nam xem Liên Xô là đồng minh quan trọng nhất. Cùng thời điểm này, mối quan hệ giữa Liên Xô và Trung Quốc xấu đi. Trung Quốc xem Hoa Kỳ là cường quốc đang mất dần ảnh hưởng vì thất bại của họ tại Việt Nam, còn Liên Xô bị Trung Quốc xem là "chủ nghĩa đế quốc Xô viết" nổi lên thành mối đe dọa hàng đầu đối với Trung Quốc.
Một tài liệu của CIA ngày 12/8/1969 nhận định: “Gần như căng thẳng Trung – Xô sẽ không thể nào giảm trong vòng hai ba năm tới. Vì quyền lợi quốc gia xung đột nhau, vì sự cạnh tranh nhằm lãnh đạo phong trào cộng sản quốc tế, và sự lo sợ có thực về ý định của nhau sẽ khiến việc tiếp cận không thể xảy ra. Vấn đề biên giới cũng sẽ không dễ giải quyết. Từ đầu tháng 3/1969 bắt đầu có nhiều cuộc xung đột quân sự quy mô nhỏ dọc biên giới Trung - Xô. Cả hai nước ở tình trạng chiến tranh có thể nổ ra bất cứ lúc nào. Sang đầu năm 1970, Liên Xô triển khai tới 48 sư đoàn, tương đương gần một triệu quân dọc biên giới Trung Quốc.
Còn Trung Quốc tập trung 6 triệu quân tại biên giới với Liên Xô. Thậm chí còn có nguồn tin cho rằng, lãnh đạo Liên Xô đã tính đến việc dùng vũ khí nguyên tử tấn công Trung Quốc nếu cần. Mối đe dọa từ Liên Xô đã thúc đẩy lãnh đạo Trung Quốc bình thường hóa quan hệ Mỹ - Trung vào năm 1973”.
Năm 1970, Hoa Kỳ và Nhật Bản ký Hiệp ước trao trả Okinawa (Okinawa Reversion Treaty) trao trả quần đảo Senkaku (Sento Shosho hay Senkaku Retto của Nhật Bản) về dưới chủ quyền của Nhật Bản với sự phản đối của Đài Loan và Trung Quốc; và cùng năm, Đô đốc Elmo Zumwalt, cựu Tham mưu trưởng Hải quân Hoa Kỳ họp báo tuyên bố tại Guam rằng, Hoàng Sa và Trường Sa không nằm trong chiến lược triển khai các hải đảo tiền đồn của Đệ thất Hạm đội Hoa Kỳ (Hạm đội 7). Theo nhận định của Hải quân Việt Nam cộng hòa thì đây là “sự kiện trao đổi giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc và là nguy cơ cho Việt Nam cộng hòa trong việc bảo vệ Hoàng Sa”.
Năm 1971, Hải quân Trung Quốc và Hải quân Việt Nam cộng hòa tiếp tục chạm súng trên hải phận Hoàng Sa. Những năm cuối của cuộc Chiến tranh Việt Nam, vì nhu cầu chiến trường, tiểu đoàn thủy quân lục chiến của Việt Nam cộng hòa tại Hoàng Sa được đưa vào đất liền, chỉ còn một trung đội địa phương quân trấn giữ nhóm đảo Nguyệt Thiềm.
Tháng 2 năm 1972, Tổng thống Mỹ Richard Nixon tới Trung Quốc hội kiến Mao Trạch Đông. Mỹ và Trung Quốc đưa ra tuyên bố chung phản đối "bá quyền" tại châu Á và Thái Bình Dương. Năm 1973, Trung Quốc và Mỹ mở văn phòng liên lạc ở thủ đô mỗi nước mở đầu cho việc bình thường hóa quan hệ giữa hai nước.
Năm 1973, với Hiệp định Paris, Hoa Kỳ và Hạm đội 7 rút quân và thiết bị của Hoa Kỳ ra khỏi khu vực quần đảo Hoàng Sa. Như vậy Hoa Kỳ đã xem việc bảo vệ quần đảo này là việc riêng của Việt Nam cộng hòa.
Ngày 11/1/1974 Bộ Ngoại giao Trung Quốc ra tuyên bố Hoàng Sa, Trường Sa là lãnh thổ của Trung Quốc và tố cáo Việt Nam cộng hòa chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sau đó, Việt Nam cộng hòa ra tuyên bố khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa là lãnh thổ của Việt Nam và bác bỏ những cáo buộc của Trung Quốc.
Trước tình hình đó, Bộ tư lệnh Hải quân Việt Nam cộng hòa quyết định thiết lập một phi trường trên đảo Hoàng Sa có khả năng chuyên chở bằng máy bay hạng nặng C-47 Caribou để chuyển quân nhanh ra nhóm đảo Nguyệt Thiềm. Ngày 16/1/1974, khi một phái đoàn của Quân lực Việt Nam cộng hòa thăm dò một số đảo Hoàng Sa trong việc chuẩn bị xây dựng sân bay nói trên thì phát hiện ra sự hiện diện của Hải quân Trung Quốc và giao tranh xảy ra sau đó.
Lực lượng hai bên khi xung trận
Phía Việt Nam Cộng Hòa có 4 chiến hạm là Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt (HQ-16), Hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ-10), Tuần dương hạm Trần Bình Trọng (HQ-5), Khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ-4), 1 đại đội hải kích thuộc Hải quân Việt Nam cộng hòa, một số biệt hải (biệt kích hải quân) và 1 trung đội địa phương quân đang trú phòng tại đảo Hoàng Sa.
Phía Cộng hòa nhân dân Trung Hoa có 4 chiếm hạm trực tiếp tham gia trận chiến là Liệp tiềm đĩnh (tàu chống ngầm) số 274, Liệp tiềm đĩnh số 271, Tảo lôi hạm số 389, Tảo lôi hạm số 396, 2 ngư thuyền ngụy trang số 402 và số 407. Ngoài ra, phía Trung Quốc còn có lực lượng thuộc Trung đoàn 10 Hải quân lục chiến. Sau khi trận chiến đã kết thúc thì Liệp tiềm đĩnh số 282 và Liệp tiềm đĩnh số 281 mới đến tăng viện.
Phía Việt Nam Cộng Hòa có 4 chiến hạm là Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt (HQ-16), Hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ-10), Tuần dương hạm Trần Bình Trọng (HQ-5), Khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ-4), 1 đại đội hải kích thuộc Hải quân Việt Nam cộng hòa, một số biệt hải (biệt kích hải quân) và 1 trung đội địa phương quân đang trú phòng tại đảo Hoàng Sa.
Phía Cộng hòa nhân dân Trung Hoa có 4 chiếm hạm trực tiếp tham gia trận chiến là Liệp tiềm đĩnh (tàu chống ngầm) số 274, Liệp tiềm đĩnh số 271, Tảo lôi hạm số 389, Tảo lôi hạm số 396, 2 ngư thuyền ngụy trang số 402 và số 407. Ngoài ra, phía Trung Quốc còn có lực lượng thuộc Trung đoàn 10 Hải quân lục chiến. Sau khi trận chiến đã kết thúc thì Liệp tiềm đĩnh số 282 và Liệp tiềm đĩnh số 281 mới đến tăng viện.
Về vũ khí trên các tàu, 2 chiếc Tuần dương hạm của Việt Nam Cộng hòa trang bị 1 khẩu pháo 127 ly (5 inch) đặt tại boong trước, đằng sau của khẩu đại pháo là giàn pháo 40 ly 2 nòng nằm một tầng cao hơn ngay dưới đài chỉ huy. Hai bên hông đài chỉ huy là các khẩu đại bác 20 ly đôi (2 nòng). Tại boong sau có các khẩu đại bác 40 ly đơn, một bên tả hạm, một bên hữu hạm. Vũ khí chính của HQ-10 là khẩu pháo 76,2 ly đặt tại sân trước, 2 đại bác 40 ly đơn tại boong giữa và 4 đại bác 20 ly đặt hai bên hông đài chỉ huy và boong sau. Còn tàu khu trục HQ-4 được trang bị radar phòng không (DER - Destroyer Escort Radar) và hai giàn pháo 76,2 ly có radar điều khiển (radar control) với khả năng tự dò tìm góc độ và tầm xa để "khóa chặt" (lock on) mục tiêu. Trong khi đó, tàu chống ngầm lớp Krondstadt (Kronshtadt class submarine chaser) của Trung Quốc trang bị 1 pháo 85 ly và 2 pháo 37 ly điều khiển bằng tay.
Như vậy, xét tương quan lực lượng, mỗi bên có 4 chiến hạm trực tiếp tham chiến. Việt Nam cộng hòa có ưu thế là các chiến hạm lớn, trang bị pháo và súng lớn hơn, mạnh hơn, nhiều hơn so với tàu Trung Quốc. Tuy nhiên, nhược điểm của các tàu này là cồng kềnh, vận chuyển chậm. Các chỉ huy Việt Nam Cộng hòa cũng không lập sẵn kế hoạch cơ động tác chiến nếu có nổ súng, dẫn đến việc tác chiến bị động và 2 tàu trong đội hình (HQ-5 và HQ-16) đã bắn nhầm vào nhau.
Nhìn lại kết cục của cuộc Hải chiến Hoàng Sa
Đêm hôm được lệnh rút bỏ quần đảo Hoàng Sa, 3 chiến hạm Việt Nam Cộng Hòa bị hư hại trở về căn cứ tại Đà Nẵng. Về tới nơi, kiểm tra thì mới biết HQ-16 trúng một viên đạn bắn cầu vồng từ HQ-5 rơi xuống nước, gặp sức cản của nước, bị lệch hướng rồi đâm vào lườn tàu HQ-16 dưới mặt nước.
Theo tường thuật của Trung tá Lê Văn Thự: "Viên đạn xước qua một góc máy điện, xuyên đứt cánh tay Trung sĩ Điện khí Xuân kế đó rồi chui vào kho điện khí ở một góc hầm máy và nằm ở đó". Còn hộ tống hạm HQ-10 trong ngày 19 đã bị trúng đạn và chìm. HQ-4 rút lui từ đầu do khả năng bắn hạn chế nên chỉ bị thiệt hại nhẹ.
Theo sĩ quan Bùi Ngọc Nở, HQ-5 thiệt hại rất nặng: "Đếm được tất cả là 102 lỗ đạn đại bác 100 ly, còn đạn đại bác 37 ly lỗ nhỏ hơn và nhiều không đếm được, riêng đài chỉ huy trúng mười mấy trái đại bác 100 ly nhưng may mắn là nhờ hai lớp thép bảo vệ nên khi xuyên qua hai lớp thép này thì hết tầm".
Trung Quốc đã chiếm được toàn bộ Hoàng Sa
Trong khi chiến sự đang diễn ra tại Hoàng Sa, Diệp Kiếm Anh, Đặng Tiểu Bình và Tô Chấn Hoa báo cáo lên Mao Trạch Đông đề nghị cho phép quân đội Trung Quốc chiếm tất cả các đảo do Việt Nam cộng hòa kiểm soát. Mao đã chấp thuận đề nghị này. Khi hải chiến Hoàng Sa kết thúc, sau khi nghe báo cáo, Đặng Tiểu Bình đã chỉ thị cho quân khu Quảng Châu tiếp tục đánh chiếm các đảo Hoàng Sa, Hữu Nhật và Quang Ảnh.
Ngày 20/1, có 4 phi cơ MiG-21 và MiG-23 của Trung Quốc oanh tạc các đảo Hữu Nhật, Quang Ảnh và Hoàng Sa. Tiếp đó, quân Trung Quốc đổ bộ tấn công các đơn vị đồn trú của Việt Nam cộng hòa trên các đảo này. Sau 20 phút, lực lượng của Việt Nam cộng hòa trên các đảo bị mất liên lạc.
Theo tường thuật của Trung tá Lê Văn Thự: "Viên đạn xước qua một góc máy điện, xuyên đứt cánh tay Trung sĩ Điện khí Xuân kế đó rồi chui vào kho điện khí ở một góc hầm máy và nằm ở đó". Còn hộ tống hạm HQ-10 trong ngày 19 đã bị trúng đạn và chìm. HQ-4 rút lui từ đầu do khả năng bắn hạn chế nên chỉ bị thiệt hại nhẹ.
Theo sĩ quan Bùi Ngọc Nở, HQ-5 thiệt hại rất nặng: "Đếm được tất cả là 102 lỗ đạn đại bác 100 ly, còn đạn đại bác 37 ly lỗ nhỏ hơn và nhiều không đếm được, riêng đài chỉ huy trúng mười mấy trái đại bác 100 ly nhưng may mắn là nhờ hai lớp thép bảo vệ nên khi xuyên qua hai lớp thép này thì hết tầm".
Trung Quốc đã chiếm được toàn bộ Hoàng Sa
Trong khi chiến sự đang diễn ra tại Hoàng Sa, Diệp Kiếm Anh, Đặng Tiểu Bình và Tô Chấn Hoa báo cáo lên Mao Trạch Đông đề nghị cho phép quân đội Trung Quốc chiếm tất cả các đảo do Việt Nam cộng hòa kiểm soát. Mao đã chấp thuận đề nghị này. Khi hải chiến Hoàng Sa kết thúc, sau khi nghe báo cáo, Đặng Tiểu Bình đã chỉ thị cho quân khu Quảng Châu tiếp tục đánh chiếm các đảo Hoàng Sa, Hữu Nhật và Quang Ảnh.
Ngày 20/1, có 4 phi cơ MiG-21 và MiG-23 của Trung Quốc oanh tạc các đảo Hữu Nhật, Quang Ảnh và Hoàng Sa. Tiếp đó, quân Trung Quốc đổ bộ tấn công các đơn vị đồn trú của Việt Nam cộng hòa trên các đảo này. Sau 20 phút, lực lượng của Việt Nam cộng hòa trên các đảo bị mất liên lạc.
Thiệt hại của hai bên tham chiến
Theo tài liệu của Việt Nam Cộng Hòa thì phía Trung Quốc, tàu 274 trúng đạn, không thể điều khiển, phải ủi vào bãi san hô để thủy thủ đoàn đào thoát, tàu 271 và 389 bị chìm tại trận hoặc hư hại nặng, tàu 396 bị hư hại nặng. Còn phía Việt Nam cộng Hòa, tàu HQ-10 trúng đạn vào tháp pháo và bị chìm sau đó, HQ-16 bị hư hại nặng nghiêng hơn 10 độ, HQ-4 bị hư nhẹ. Có nhân chứng khẳng định, HQ-5 hư nhẹ còn nhân chứng khác khẳng định HQ-5 hư nặng.
Theo tài liệu của Việt Nam Cộng Hòa thì phía Trung Quốc, tàu 274 trúng đạn, không thể điều khiển, phải ủi vào bãi san hô để thủy thủ đoàn đào thoát, tàu 271 và 389 bị chìm tại trận hoặc hư hại nặng, tàu 396 bị hư hại nặng. Còn phía Việt Nam cộng Hòa, tàu HQ-10 trúng đạn vào tháp pháo và bị chìm sau đó, HQ-16 bị hư hại nặng nghiêng hơn 10 độ, HQ-4 bị hư nhẹ. Có nhân chứng khẳng định, HQ-5 hư nhẹ còn nhân chứng khác khẳng định HQ-5 hư nặng.
Thiếu tá HQ Việt Nam Cộng Hòa Ngụy Văn Thà và tàu HQ-10. (Ảnh tư liệu)
Hải quân Việt Nam cộng hoà có 74 binh sỹ tử vong trong đó HQ-10 có 62 người chết, bao gồm hạm trưởng Ngụy Văn Thà, HQ-4 có 3 người chết, HQ-5 có 3 quân nhân tử vong và 16 bị thương, HQ-16 có 2 người chết, lực lượng người nhái có 4 người chết.
Hai ngày sau trận hải chiến, ngày 20/1, tàu chở dầu Hà Lan "Kopionella" trên đường hành trình gần đó đã vớt được 23 người thuộc thủy thủ đoàn của HQ-10 đang trôi dạt trên biển. Đến 10 ngày sau, ngày 29/1, ngư dân Việt Nam cũng vớt được một toán quân nhân Việt Nam cộng hòa gần Mũi Yến (Qui Nhơn), gồm 1 sĩ quan, 2 hạ sĩ quan và 12 quân nhân thuộc lực lượng đổ bộ lên đảo Quang Hòa, đã dùng bè vượt thoát đảo sau trận hải chiến.
Theo tài liệu của Trung Quốc thì các tàu 274, 271, 389, 396 của họ đều trúng đạn, 281, 282 và 402, 407 bị hư hại trung bình, HQ-10 bị chìm tại trận. Trung Quốc bắt giữ 48 tù binh, trong đó có một người Mỹ. Trung Quốc có trao trả tù binh sau đó tại Hồng Kông qua Hội Chữ thập đỏ.
Phía Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có 18 binh sĩ thiệt mạng, 67 binh sĩ bị thương và 3 người bị xây xát nhẹ. Một trong những binh sĩ trở về từ cuộc chiến là Ngô Tiên Phong, ông đã được nhà nước và quân đội Trung Quốc phong anh hùng và được tặng huân chương chiến công hạng nhất.
Trung Quốc chiếm đóng toàn bộ quần đảo Hoàng Sa từ thời điểm này.
Không có giải pháp nào cứu vãn tình thế
Từ sau trận chiến cho đến sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, Việt Nam cộng hòa đã ra nhiều tuyên bố cũng như trưng ra các chứng cớ lịch sử về chủ quyền của mình như:
"Tuyên cáo của Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam cộng Hòa về những hành động gây hấn của Trung Quốc trong khu vực đảo Hoàng Sa" số 015/BNG/TTBC/TT ngày 19/1/1974
"Tuyên cáo của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa về chủ quyền của Việt Nam Cộng hòa trên những đảo ở ngoài khơi bờ biển Việt Nam Cộng hòa" ngày 14/2/1974
Tài liệu "Thế giới lên án Trung Cộng xâm lăng Hoàng Sa của Việt Nam Cộng hòa", Tổng cục chiến tranh chánh trị, Cục tâm lý chiến, Quân lực Việt Nam Cộng hòa, 1974.
"Sách trắng về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa", Bộ ngoại giao Việt Nam cộng hòa, 1975
Chính sách nhất quán của Việt Nam Cộng Hoà là bảo vệ đến cùng sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam trên bộ cũng như trên biển. Việt Nam cộng hoà không bao giờ thừa nhận Hoàng Sa thuộc về Trung Quốc bằng hành động vũ lực cưỡng chiếm lãnh thổ Việt Nam.
Ngày 20/1/1974, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ra bản Tuyên bố phản đối hành động này của phía Trung Quốc. Ngày 26/1/1974, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam tuyên bố lập trường 3 điểm về việc giải quyết các vấn đề tranh chấp lãnh thổ. Ngày 14/2/1974, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam tuyên bố khẳng định quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là một bộ phận của lãnh thổ Việt Nam.
Chính phủ Mỹ không có tuyên bố ngoại giao nào lên án việc Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa mà chỉ tỏ thái độ thông cảm với đồng minh Việt Nam cộng hoà.
Ông Hoàng Đức Nhã, cựu Bí thư kiêm Tham vụ Báo chí của Việt Nam cộng hoà, đã gọi điện cho đại sứ Hoa Kỳ để hỏi vì sao Hoa Kỳ không thông báo cho Việt Nam cộng hòa biết việc Trung Quốc điều quân đe dọa Hoàng Sa để chủ động đối phó, đại sứ Graham Martin trả lời rằng họ "không thể thấy được". Ông Nhã liền chất vấn Đại sứ Martin rằng, chuyện cả một hạm đội di chuyển mà người Mỹ "không thấy" thì quả là khó tin.
Theo Việt Nam Dân chủ cộng hòa, hành động của Trung Quốc là có tính toán từ trước và thấy được sự cố tình làm ngơ của Mỹ. Vì vậy, khi đó đại sứ Mỹ Graham Martin ở Sài Gòn đã bác bỏ yêu cầu cứu viện của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu và hạm đội Mỹ ở Thái Bình Dương đã được lệnh tránh xa quần đảo Hoàng Sa.
Đặc biệt, hành động của Trung Quốc diễn ra chỉ một ngày sau khi họ chấp nhận đàm phán với phía Việt Nam dân chủ cộng hòa về vấn đề vịnh Bắc Bộ, trong đó Trung Quốc yêu cầu được đặc quyền thăm dò trong một khu vực rộng 20.000 km2 trong vịnh Bắc Bộ do họ tự ý định ra (yêu cầu này sau đó bị Việt Nam dân chủ cộng hòa bác bỏ và đàm phán lâm vào bế tắc).
Bởi một chuỗi các sự kiện trên, năm 1975, khi Quân đội nhân dân Việt Nam mở chiến dịch Trường Sa và các đảo trên Biển Đông để thu hồi Trường Sa, họ đã ra công điện chỉ thị phải tiến hành khẩn trương để đề phòng "quân đội nước ngoài" có ý định chiếm quần đảo.
Sau khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc, Việt Nam đã tuyên bố chủ quyền đối với cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngày 15/3/1979, Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố Bị vong lục về vấn đề biên giới Việt - Trung, trong đó lên án việc Trung Quốc đánh chiếm trái phép quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Ngày 28/9/1979, Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố Sách trắng, giới thiệu 19 tài liệu chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa.
Việc này đã khiến Trung Quốc bất bình và bắt đầu một thời kỳ quan hệ căng thẳng giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay vẫn khẳng định chủ quyền đối với toàn bộ quần đảo Hoàng Sa và vùng lãnh hải liên quan trên Biển Đông.
Đức Toàn (Petrotimes) tổng hợp
_____________________________________
40 năm hải chiến Hoàng Sa
Tàu cá TQ cản đường chiến hạm HQVNCH tiến vào Hoàng Sa - Ảnh tư liệu
Ngày 11-1-1974, Trung Quốc đơn phương tuyên bố chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa. Kèm theo những lời tuyên bố vô căn cứ, Trung Quốc phái nhiều tàu đánh cá võ trang và tàu chiến xâm nhập hải phận Hoàng Sa.
Ngày hôm sau 12-1-1974, Ngoại trưởng Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) Vương Văn Bắc đã cực lực bác bỏ luận điệu ngang ngược và lên án hành động xâm lăng gây hấn của Trung Quốc. Đồng thời, Bộ tư lệnh hải quân VNCH khẩn cấp tăng cường chiến hạm tuần tiễu tại vùng biển Hoàng Sa.
Đổ bộ, cắm cờ và khiêu khích
Đô đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, tư lệnh hải quân vùng 1 duyên hải, viết trong hồi ký: “Vào ngày 15-1-1974, tuần dương hạm Lý Thường Kiệt (HQ16), hạm trưởng là trung tá Lê Văn Thự, được lệnh đưa địa phương quân thuộc tiểu khu Quảng Nam và nhân viên khí tượng ra Hoàng Sa để thay thế toán đang ở ngoài đó hết nhiệm kỳ. Cùng đi còn có hai sĩ quan công binh đi theo tàu để nghiên cứu việc tu sửa lại cầu tàu tại Hoàng Sa và một người Mỹ tên Gerald Kosh xin đi để biết đảo Hoàng Sa... Khi chiến hạm vừa khởi hành, tôi được báo cáo từ Hoàng Sa là thấy một vài ghe đánh cá xuất hiện rất gần bờ tại đảo Pattle. Tôi liền chuyển tin tức đó cho chiến hạm HQ16”.
Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại trên đảo Pattle (Quần đảo Hoàng Sa)
Sáng 16-1, đến đảo Pattle (Hoàng Sa), HQ16 cho bốn nhân viên cơ hữu dùng xuồng chở sáu người trong đoàn công binh lên đảo do thiếu tá Hồng chỉ huy và trong khi chờ đoàn công binh trở lại tàu, hạm trưởng HQ16 “thấy trên đảo Quang Hòa bốn năm người ăn mặc như thường dân, có người ở trần, đi lại gần một dãy nhà đang cất dở dang”. Hạm trưởng Thự liền hỏi bộ chỉ huy và được biết trên đảo này không có “quân ta”.
Đến trưa 16-1-1974, HQ16 lại thấy “một chiến hạm Trung Quốc xuất hiện trong vùng”. Trung úy Đào Dân, sĩ quan phụ tá trên HQ16, ra lệnh đánh tín hiệu nhưng tàu lạ im lặng. Ông viết trong hồi ký: “Tôi liền hội ý với hạm trưởng và khai hỏa đại liên 30 li cố ý đuổi nó ra khỏi vùng đảo nhưng tàu lạ vẫn không nhúc nhích”. HQ16 tiến gần hơn khoảng 500m thì thấy rõ lá cờ Trung Quốc. Một mặt HQ16 báo cáo về bộ chỉ huy, một mặt dùng tay, cờ và loa phóng thanh tiếng Hoa “yêu cầu ra khỏi hải phận Việt Nam”. Lúc đó tàu Trung Quốc không trả lời, nhiều người lên boong tàu, “đa số mặc quần cụt, áo thun, một số mặc quân phục”. Mãi một lúc lâu, tàu Trung Quốc cũng lên tiếng “yêu cầu ngược lại”. Đồng thời, “nhiều tàu cá xuất hiện cạnh đảo Money và hàng trăm lá cờ Trung Quốc cắm rải rác dọc bờ cát trắng”.
Trước tình hình đặc biệt nghiêm trọng này, trung tá Thự phải báo cáo về bộ tư lệnh hải quân và xin được tăng viện. Khu trục hạm Trần Khánh Dư số hiệu HQ-4, do trung tá Vũ Hữu San làm hạm trưởng, được lệnh khẩn cấp hành quân ra Hoàng Sa.
40 năm đã trôi qua, cựu thượng sĩ Trần Dục hiện đang sống ở Huế vẫn không thể quên được cuộc hành quân đặc biệt này. “Khoảng giữa tháng 1-1974, khu trục hạm HQ-4 Trần Khánh Dư sắp hoàn thành nhiệm vụ tuần tra biển vùng 1 và chuẩn bị vào bờ. Đang tính toán lên bờ Đà Nẵng sẽ mua sắm quà tết gì cho gia đình thì bất ngờ nhận nhiệm vụ mới ở Hoàng Sa. Anh em binh sĩ, thủy thủ đoàn chưa rõ tình hình nhưng đoán nhiệm vụ rất quan trọng. Bởi tết nhất rồi mà còn phải hành quân khẩn cấp chắc chắn phải có lý do quân sự”. Ông Dục lúc ấy là quản trưởng có trách nhiệm thay mặt hạm trưởng sắp xếp, điều động toàn bộ nhân sự trên tàu.
Cuộc hành quân lúc 0 giờ
Công tác chuẩn bị của khu trục hạm Trần Khánh Dư rất gấp rút. Buổi chiều, hạm trưởng San lên bờ họp trong khi bộ phận còn lại hối hả tiếp liệu, lương thực, đạn dược... Khoảng nửa đêm 16-1, tàu quay mũi rời Đà Nẵng hướng ra Hoàng Sa. Ngoài binh sĩ cơ hữu, tàu chở thêm một trung đội biệt hải do đại úy Nguyễn Minh Cảnh chỉ huy. HQ-4 là chiến hạm thuộc lớp hiện đại nhất thời điểm ấy của hải quân VNCH nên tốc độ khá cao. Khoảng trưa 17-1, khu trục hạm HQ-4 Trần Khánh Dư đã gia nhập với tuần dương hạm HQ16 Lý Thường Kiệt có mặt từ trước.
Tư lệnh vùng 1 duyên hải Hồ Văn Kỳ Thoại “chỉ định trung tá Vũ Hữu San giữ chức vụ chỉ huy chiến thuật (OTC-officer in tactical command) phân đội hoạt động vùng Hoàng Sa, gồm tuần dương hạm Lý Thường Kiệt (HQ16) và khu trục hạm Trần Khánh Dư”. Trung úy hải quân Đào Dân kể: Vừa nhập vùng, HQ-4 hành động ngay. HQ-4 từ phía nam đảo Money chạy lên, HQ16 từ đảo Pattle chạy xuống kềm chặt hai chiếc tàu Trung Quốc vào giữa. Hai bên đấu khẩu nhau. Cuối cùng HQ-4 nổ máy đâm thẳng tàu địch đuổi nó ra khơi”.
Là một trong những sĩ quan thường xuyên có mặt trên đài chỉ huy cùng hạm trưởng San, cựu trung úy Phạm Ngọc Roa (hiện sống ở Lâm Đồng), phụ tá sĩ quan hải hành, kể: “Hạm trưởng San là một người thẳng thắn và nóng tính, sẵn sàng thực hiện ngay việc mình xác quyết là đúng. Trung tá San lệnh dùng cờ, quang hiệu lẫn loa phát tiếng Việt, Trung, Anh để đuổi tàu Trung Quốc. Lúc đầu tàu Trung Quốc còn im lặng, đậu lì. Sau đó họ cũng trả lời dối trá lại đây là vùng chủ quyền Trung Quốc, yêu cầu tàu VNCH phải rời ngay lập tức. Hai bên vờn nhau mãi không giải quyết được gì, trung tá San cảnh báo, rồi ra lệnh bẻ lái ủi thẳng vào chiếc tàu giả trang ngư nghiệp 407 của Trung Quốc theo hướng đẩy ra xa đảo. Mũi khu trục hạm Trần Khánh Dư cao lớn hơn, chồm lên đè bể một phần buồng lái chiếc tàu 407 làm nó và một chiếc gần đó hoảng sợ, phải lùi ra xa.
Ông Dân mô tả “Trước thái độ quyết liệt của HQ-4, tàu địch bỏ chạy về phía nam của hai đảo Duy Mộng và Quang Hòa. Sau khi đuổi hai tàu địch, HQ-4 đổ bộ khoảng 20 người nhái lên đảo Money dẹp cờ Trung Quốc, cắm cờ VN. Còn HQ16 chuẩn bị đổ bộ 15 nhân viên cơ hữu lên đảo Robert do trung úy Lâm Trí Liêm chỉ huy. Toán này mang vũ khí đầy đủ, lương thực khô vài ba ngày”.
Thượng sĩ giám lộ Lữ Công Bảy trên HQ-4 kể: “Trung đội biệt hải lên đảo Vĩnh Lạc không phát hiện gì ngoài vài nấm mộ hình như mới đắp, không có bia, chỉ có cọc gỗ và bảng gỗ đóng trước đầu mộ ghi chữ Trung Quốc với ngày sinh và chết mấy chục năm trước. Các chiến sĩ biệt hải được lệnh đào bới các nấm mộ lên, chẳng thấy xương cốt gì cả. Đây là những nấm mộ ngụy tạo...”.
Đêm 17 rạng 18-1 là đêm cực kỳ căng thẳng. Phía Trung Quốc tiếp tục tăng cường lực lượng và cố tình khiêu khích. Các chiến hạm của họ tiến sâu vào lãnh hải Hoàng Sa. Tàu HQ-4 và HQ16 dùng tín hiệu cảnh cáo: “Đây là lãnh hải của Việt Nam. Yêu cầu các ông hãy rời khỏi đây ngay!”. Phía Trung Quốc đáp trả rằng Hoàng Sa là của họ!
Trung tá hạm trưởng HQ-4 Vũ Hữu San - Ảnh tư liệu
Sáng 17-1, theo nhà nghiên cứu Trần Đỗ Cẩm, “HQ16 quay lại đảo Cam Tuyền thấy hai tàu Trung Quốc vẫn còn đó. Ngoài ra, gần đảo Vĩnh Lạc (Money) lân cận cũng có tàu Trung Quốc xuất hiện với hàng trăm lá cờ Trung Quốc cắm rải rác dọc bãi cát trắng. Hạm trưởng HQ16 liền báo cáo “hai tàu cá Trung Quốc không tuân lệnh của chiến hạm VNCH ra khỏi lãnh hải VN và xuất hiện hai tàu chở quân của Trung Quốc đến gần đảo và trên bờ có cắm nhiều cờ của Trung Quốc”. Nhận được báo cáo, đô đốc Hồ Văn Kỳ Thoại ra lệnh cho HQ16 đổ bộ nhân viên cơ hữu lên đảo Vĩnh Lạc để triệt hạ cờ Trung Quốc. Trung tá Thự cho một toán đổ bộ gồm một trung úy và 14 đoàn viên của chiến hạm trang bị M79 và súng cá nhân lên bờ bằng xuồng cao su để nhổ hết cờ Trung Quốc mới cắm và thay bằng cờ Việt Nam.
“40 năm đã trôi qua, nhưng chúng tôi không thể nào quên được trận hải chiến Hoàng Sa năm 1974. Nhiều đồng đội của chúng tôi đến giờ vẫn còn lại dưới đáy sâu vùng biển này. Thân xác và hương hồn những người lính Việt đã hòa với cát đá, sóng gió đại dương để mãi mãi khẳng định rằng nơi này chưa một ngày nào chia lìa Tổ quốc...”.
Trần Nhật Vy/Quốc Việt (Tuoitre Online)
____________________________________________
Ành bởi QHNM poster
Sự kiện Hoàng Sa qua báo chí Sài Gòn năm 1974
Đại tá HQVNCH Hà Văn Ngạc chỉ huy trận hải chiến (ảnh kèm theo bài đăng tải trên Petrotimes)
Sự kiện Hoàng Sa, ngày 19/01/1974 với cuộc đụng độ vũ trang giữa quân đội Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và quân đội Trung Quốc đánh một dấu mốc quan trọng trong chính sách “tằm ăn lá dâu” trên biển Đông nói chung và quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam nói riêng của Trung Cộng. Sự kiện diễn ra cách đây 40 năm trong bối cảnh liên quan mật thiết đến những chuyển biến có tính chất bước ngoặc nội bộ của các nước có tranh chấp, đồng thời cũng là một hệ quả của mối quan hệ quốc tế một thời gian dài trước đó. Dưới đây là những ý kiến phân tích sự kiện hải chiến Hoàng Sa qua báo chí năm 1974 cho thấy rõ hơn những vấn đề trong vụ hải chiến Hoàng Sa.
Chính quyền VNCH quyết tâm bảo vệ quần đảo Hoàng Sa đến cùng
Ngày 11/1/1974, Trung Cộng tuyên bố quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Trung Cộng, Bộ Ngoại giao VNCH đã phản ứng rất quyết liệt. Trong những cuộc họp báo tại Sài Gòn, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao cũng như ông Tổng trưởng Ngoại giao VNCH đã tố cáo trước dư luận thế giới về tham vọng bành trướng lãnh thổ của Trung Cộng.
Trong một cuộc họp báo “đặc biệt” được tổ chức tại phòng họp của Bộ Ngoại giao VNCH, quy tụ đông đảo Đại diện báo chí trong nước và ngoài nước vào chiều 15-1-1974, Tổng trưởng Ngoại giao Vương Văn Bắc đã lên tiếng tố cáo trước quốc dân và quốc tế về việc Trung Cộng vi phạm chủ quyền VNCH trên quần đảo Hoàng Sa; ngày 16/10/1974, Bộ Ngoại giao VNCH ra Tuyên bố về việc Trung Cộng vi phạm chủ quyền VNCH trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngay ngày hôm sau (17/01/1974), tờ Tia Sáng đăng bài phản đối những hành động gây hấn của Trung Cộng đã đe dọa đến hòa bình trong khu vực, vi phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa. Bài báo dẫn lời tuyên bố: “Đây là hành động trắng trợn chà đạp lên chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của VNCH…Trước những hành vi thô bạo đó, Chính phủ và nhân dân Việt Nam cộng hòa rất căm phẫn và quyết không dung thứ… sẽ cương quyết bảo vệ chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của mình và dành quyền thi hành mọi biện pháp thích nghi cho mục đích ấy.
Một tuyên bố như vậy ra đời là quan trọng và cơ bản trong thái độ khẳng định chủ quyền, tuy nhiên trước tình hình Trung Cộng tăng cường lực lượng Hải quân, phía VNCH đã có những hành động tương ứng để đối phó với chủ trương trước hết là giải quyết mâu thuẩn bằng biện pháp hòa bình. Tia Sáng ngày 19/01/1974 có bài với nội dung sau khi đưa tin tình hình tranh chấp ở Hoàng Sa, nêu chứng cứ lịch sử về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, nhận định nguyên nhân vì sao Trung Cộng xâm chiếm Hoàng Sa, đã đề cập việc Bộ Ngoại giao VNCH khẩn báo lên Liên hiệp quốc đề nghị can thiệp giải quyết vụ Hoàng Sa.
“Hoàng Sa là một quần đảo chứa đựng sẵn một tài nguyên vô tận, chất phosphate và tương lai dầu hỏa dưới thềm lục địa của đảo này. Hai nguồn lợi này đã được coi như nguyên nhân thúc đẩy Trung Cộng tranh quyền, lấn đất với Việt Nam Cộng hòa kể từ đầu tháng 1-1974 đến nay. Nhân dịp này, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa cũng yêu cầu Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc sử dụng những biện pháp khả thi và cần thiết nhằm điều chỉnh lại tình trạng vừa xảy ra kể trên.
Sau khi chiến sự đã xảy ra, Tia Sáng dẫn lời Ngoại trưởng Vương Văn Bắc trong cuộc họp báo đặc biệt tại Bộ Ngoại giao ngày 27/01/1974 đã tố cáo những hành động vũ lực, xâm phạm chủ quyền của Trung Cộng, khẳng định ý chí chiến đấu bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của mình. “Ngoại trưởng Vương Văn Bắc lại một lần nữa xác nhận các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là những lãnh thổ bất khả phân của Việt Nam Cộng hòa, căn cứ vào những dữ kiện hợp lý về địa lý, pháp lý và thực tế. Việt Nam Cộng hòa sẽ không chịu khuất phục bất cứ một áp lực nào để phải từ bỏ phần lãnh thổ này của quốc gia.
Trong phương án giải quyết sau khi Trung Cộng xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa, chính quyền VNCH đã nêu quan điểm là cần huy động sức mạnh nội lực và ngoại lực. “Muốn bảo vệ chủ quyền, chính phủ phải đạt được nhân tâm trong quốc nội và thế độc lập ngoại giao ở quốc ngoại. Đối với yếu tố nội lực là cần thống nhất nhân tâm, huy động tất cả các cơ quan chính quyền, hội đoàn thể, các đảng phái và các tầng lớp nhân dân thành một khối chung để đấu tranh bảo vệ chủ quyền.
Đây là yếu tố đầu tiên và trước hết, “trong vụ Hoàng Sa, Việt Nam Cộng hòa đã trông cậy trước hết vào lực lượng của chính mình để bảo vệ sự toàn vẹn của lãnh thổ”. Đồng thời, đây là mâu thuẫn có tính chất quốc tế, nên ngoài việc yêu cầu Liên hiệp quốc can thiệp, chính quyền VNCH đã tranh thủ sự ủng hộ của các nước trên thế giới, đây là vấn đề không chỉ riêng của một nước mà liên quan đến nhiều nước, đến khu vực và phải được cộng đồng quốc tế tham gia giải quyết.
Bởi vậy, “Tổng thống VNCH cũng đã gởi văn thư tới các Quốc trưởng hoặc nguyên thủ các quốc gia thân hữu với Việt Nam Cộng hòa nhằm trình bày các tiến trình của vụ Hoàng Sa, cùng chứng tỏ tính chính nghĩa của VNCH trong vụ này. Chính quyền VNCH truyền đi thông điệp việc xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa nằm trong âm mưu thường xuyên bành trướng lãnh thổ của Trung Cộng.
Vấn đề này thể hiện rõ trên trang chính Tia Sáng ngày 01/02/1974. Bài báo đăng một thông luận đề cập lịch sử tranh chấp tại quần đảo Hoàng Sa là một đề tài nóng và liên quan đến nhiều nước. Tuy nhiên, Việt Nam đã thủ sẵn những bằng chứng hùng hồn hơn ai hết về chủ quyền của mình đối với quần đảo này. “Nhật từ bỏ tranh chấp từ năm 1951, vấn đề chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ lâu vẫn là đề tài tranh chấp giữa Việt Nam, Trung Hoa và cả Phi Luật Tân cũng như với Nhật Bản. Tuy nhiên, VNCH đã thủ sẵn những bằng chứng hùng hồn hơn hết về chủ quyền của mình trên quần đảo Hoàng Sa cả về phương diện lịch sử địa dư và pháp lý.
Trong quan điểm giải quyết vụ Hoàng Sa của chính quyền VNCH lúc bấy giờ, Hãng AFP của Pháp đã bình luận: “VNCH vẫn chưa mất đảo Hoàng Sa và chỉ mất khi nào chịu từ bỏ tranh đấu về chủ quyền của quần đảo này, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao sáng nay tuyên bố như vậy.
Trong khi đó, Hãng UPI tại Sài Gòn ngày 28/01/1974 đưa tin VNCH sẵn sàng chuẩn bị mọi mặt để bảo vệ Hoàng Sa bằng hành động quân sự. “Các tàu chiến của Nam Việt Nam với lực lượng hùng mạnh dễ trở lại để bao vây quần đảo Hoàng Sa nhưng chưa có tin về những cuộc giao tranh mới với Trung Cộng, nguồn tin quân sự cho biết như vậy... Tin cũng nói, Không quân Nam Việt cũng di chuyển các phản lực cơ ra Đà Nẵng để có thể can thiệp mau lẹ. Tin không nói rõ có bao nhiêu tàu và phi cơ liên hệ đến lịch mới.
Theo tin báo chí thì gần đây, nếu nỗ lực ngoại giao không có kết quả thì cuộc hành quân đó sẽ được mở ra. Đã có một phiên họp của Hội đồng An ninh quốc gia hôm thứ Bảy. Các đơn vị gồm có Thủy Quân Lục Chiến, người nhái (Biệt Hải) và một toán truyền tin và tham mưu đang tiến đến quần đảo Hoàng Sa. Lực lượng này cố bao vây các quần đảo Duncan Drummond và Robert. Những nguồn tin báo chí khác có nói đến sự hiện diện của phi cơ Phantom F4 (*) có thể đương đầu với Mig 21, nhiều đơn vị hải quân của quân đoàn 3 và 4 cũng được gọi đến để tăng cường cho Quân khu I”.
Căn cứ vào bối cảnh tình hình VNCH lúc bấy giờ rõ ràng cho thấy, những phản ứng và biện pháp trên của chính quyền VNCH là những nỗ lực tới cùng. Hơn nữa, chính quyền đã có một kế hoạch liên hoàn để bảo vệ các quần đảo khác của mình. Tia Sáng ngày 31/01/1974 đưa ra kế hoạch phòng vệ của Quân lực VNCH. “Một nguồn tin hữu quyền nói với phái viên viết bài này rằng, những nỗ lực phòng thủ lúc nào cũng được chuẩn bị và chắc chắn đã được tăng cường bảo vệ lãnh thổ và lãnh hải, là các quần đảo ngoài khơi VNCH. Hai khu vực quần đảo Trường Sa và Phú Quốc đã được đặt trọng tâm trong kế hoạch bảo vệ của quân lực VNCH kể từ khi Hoàng Sa bị Trung Cộng chiếm đoạt”.
Ngày hôm sau, Ngoại trưởng Vương Văn Bắc đã tuyên bố trong buổi điều trần trước Ủy ban Ngoại giao Thông tin Thượng viện rằng: “Việt Nam Cộng hòa bằng mọi phương pháp sẽ lấy lại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vì một nước bị xâm chiếm đất đai có quyền dùng mọi phương tiện chính trị, quân sự để lấy lại phần đất đã bị chiếm mất”, đồng thời chính quyền VNCH xem “hành vi quân sự yểm trợ cho hành vi chính trị, bởi vậy những thất bại quân sự chỉ có tính cách chiến thuật, trong khi chúng ta lại đạt được những thành công trên mặt chiến lược chính trị lâu dài”.
(*) Nếu là F-5 (loại F-5A Freedom Fighter) thì đúng còn F-4 Phantom thì sai, phi công VNCH chưa từng lái F-4 Phantom. Chiến đấu cơ F-4 không chuyển giao cho KQVNCH và chỉ do phi công Mỹ sử dụng trong cuộc chiến tranh Việt Nam (NgV)
__________________________________
Đài truyền hình Đồng Nai VNCS phát hành Hải chiến Hoàng Sa của VNCH
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bấm vào dưới avata "Tham gia trang web này " để có thể biết bài mới của Ròm