Tỵ
Nạn và Cuộc Đời:
Phần
1
Lần vượt biên sau cùng 23.6.1980
Nguyễn văn Phảy
Lần vượt biên sau cùng 23.6.1980
Nguyễn văn Phảy
Hôm
nay ngày 23 tháng 6 là ngày đánh dấu 28 năm xa quê hương
và cũng là ngày sinh nhật của con gái tròn 21 tuổi,
sinh tại Tây Đức và đã tốt
nghiệp đại học New York University-Stern School of Business,
ngành Tài Chánh (Finance) lúc còn
20 tuổi, trong văn bằng tốt nghiệp được ghi hạng tối ưu (cum laude) và cháu
cũng nhận
được bằng
ban khen với tên của Đại học. Cháu cũng được
Investment Bank Goldmann Sach tại New York đồng ý nhận làm việc trước
khi ra trường. Đó là niềm vui cho gia đình chúng tôi
và cũng là động lực thúc đẩy tôi ghi lại đôi giòng về Thuyền
Nhân (Boat People).
Mặc dù thời gian trôi qua thật nhanh, nhưng
nhiều hình ảnh ra đi vượt biên vẫn còn
đọng lại tiềm tàng trong trí ức. Làm sao tôi
quên được những sự ra đi quá hải
hùng của những đứa con của Mẹ
Việt Nam, những người đi tìm tự do, tìm
cái sống trong cái chết của mình, mà thế
giới gọi là thuyền nhân „Boat People“,.
...
Đêm nay đêm tối trời, tôi bỏ quê hương
Ra đi trên chiếc thuyền hy vọng vượt trùng dương
Em đâu đâu có ngờ đêm buồn
Bỏ lại em cay đắng thật thương
Hò ơi, hò ơi, tạm biệt nước non…
Ra đi trên chiếc thuyền hy vọng vượt trùng dương
Em đâu đâu có ngờ đêm buồn
Bỏ lại em cay đắng thật thương
Hò ơi, hò ơi, tạm biệt nước non…
(Trích Đêm Chôn Dầu Vượt Biển)
Vào một đêm mùa hè trăng sao, ban ngày
trời nóng chan chan, nắng cháy da người. Tôi cùng
vợ và 2 con từ Sài Gòn đi xe đò về Tây
Đô thân yêu. Tối hôm đó, tôi cùng gia đình
vợ và 2 con được hướng dẫn lên
một chiếc ghe rất nhỏ. Chiếc ghe nhỏ
nầy đã được cất dấu nhiều ngày
trong 1 con lạch, được che bởi những khóm
cây dừa nước tại vùng Cần Thơ,
chuẩn bị di chuyển người ra một
chiếc ghe lớn để đưa chúng tôi vượt
biên. Chiếc ghe lớn đang đậu núp ở
một ven bờ Tiền Giang, hướng ra biển.
Ghe lớn có chiều dài 12,5m và chiều ngang
khoảng 2,5m.
Trong
lúc chiếc ghe nhỏ luồn lướt qua những
con lạch, băng qua những khóm dừa nước,
lao nhao đôi chú ếch nhái, ểnh ương đang
đi tìm mồi và đùa giởn réo gọi nhau
bỗng dưng yên lặng, trả lại cho màn đêm
tịch mịch. Nhưng rồi, xa xa vọng lại
những tiếng rên rĩ của côn trùng, tiếng kêu
của những lũ ếch nhái khác hoà với làn gió
nhè nhẹ thổi vào đêm trăng mùa hè cùng
với bóng dáng của cành lá cây, rào rạc ở hai
bên bờ rạch, lúc ẩn lúc hiện tạo nên
một âm thanh khó hiểu, huyền dịu. Chúng có
thấu hiểu chăng?. Chúng tôi không phải là
kẻ săn bắt chúng hay phá rầy sự sống
của chúng. Chúng tôi là những người đang tìm
đường vượt biên với tâm lý vừa
vui buồn lẫn sợ hải. Đôi khi tôi nghĩ
ngợi, mình cũng thầm cảm ơn những chú
ếch nhái và côn trùng, cây, gió. Nhờ có chúng mà chúng
tôi không bị lộ tông tích vì tiếng ồn do chúng
tôi có thể phát ra trong lúc di chuyển.
Sau
một thời gian lặng lẽ âm thầm ra đi
trong đêm tối, chúng tôi vượt ra khỏi
rạch nhỏ thì vào sông Tiền Giang, rồi đến
ghe lớn. Lúc đó vào khoảng 1 giờ sáng. Trên
ghe lớn cũng đã có một số người
từ những ghe nhỏ khác đã được
đưa đến. Rồi dần dần có thêm
nhiều ghe nhỏ nữa chở thêm người
tới.
Ngay
từ những ngày đầu chuẩn bị, sau khi người
chủ mua ghe và trang bị máy móc ở vùng Hà Tiên,
Rạch Giá, tôi đã có nhiều lần xuống vùng
đó để kiểm soát lườn ghe cũng như
xem xét máy móc được trang bị như thế
nào. Khi thử chạy máy và kiểm soát kỷ lườn
ghe thì thấy tất cả đều tốt. Chủ
ghe cũng cho tôi biết rằng ghe sẽ chở
khoảng 80 người mà thôi. Nghe vậy, tôi nghĩ
rằng với chiếc ghe nhỏ như thế
nầy cũng có thể vượt biển được
mặc dù trên đường đi có gặp biển
động. Nhưng khi tôi lên ghe lớn chừng 1
giờ thì thấy quá nhiều người trên ghe
rồi. Chiếc ghe quá tải, tưởng chừng
sắp bị chìm. Với số lượng người
đông như thế này, tôi đoán có khoảng trên
170 người. Chiếc ghe đang còn ở trên sông,
nước phẳng lặng mà đã xem như sắp
chìm rồi thì làm sao ra biển đi được.
Thấy vậy, tôi đã kêu gọi những người
đang chuẩn bị lên ghe lớn sau cùng nên hảy
ở lại quê hương và trở về nhà thì
tốt hơn. Nếu không, khi ra biển, gặp sóng
gió lớn, ghe sẽ bị chìm ngay và sẽ chết
hết. Sau khi nghe tôi nói như vậy họ đã
hiểu, cho nên một số người còn đang
ở trên ghe nhỏ họ không bước lên ghe
lớn nữa, cũng như một số người
đã lên được ghe lớn họ cũng bước
xuống ghe nhỏ mà trở về. Mặc dù vậy,
chiếc ghe vẫn còn quá tải. Lườn ghe đã
chìm sâu, chỉ còn khoảng 10 cm nổi trên mặt nước
mà thôi. Riêng cá nhân tôi, với nhiều năm đi tàu
biển, có nhiều kinh nghiệm về sóng gió,
biết rằng với chiếc ghe nhỏ như
thế nầy mà chở gần 150 người thì
rất lo lắng. Nhưng tôi đang ở vào vị
thế tiến thoái lưỡng nan. Đây là lần
vượt biên thứ ba sau khi tôi bị đi „tù
cải tạo“ về. Hai lần vượt biên trước,
ghe tôi cũng đã ra tới ngoài biển được
rồi nhưng vì bị trở ngại kỹ
thuật, ghe không chạy tiếp được,
cuối cùng phải bị bắt và vào tù trở
lại. Lần nầy nếu tôi và gia đình không
đi, khi lên bờ trở lại có thể tôi sẽ
bị bắt. Nếu tôi bị bắt mà còn bị
lộ ra tông tích rằng mình là một cựu Sĩ
Quan Hải Quân của Quân Lực Việt Nam Cọng
Hoà và đã nhiều lần vượt biên bị
bắt thì có thể lần nầy tôi sẽ bị
nhốt vào tù và khó có ngày về đoàn tụ gia
đình. Do đó, tôi quyết định ở
lại trên ghe để hướng dẩn ghe đi vượt
biên. Tôi thừa hiểu rằng trên đường vượt
biển có thể có nhiều nguy hiểm xảy ra, nhưng
tôi không có con đường lựa chọn nào khác.
Tôi chỉ hy vọng rằng vào mùa hè, sóng gió sẽ
êm dịu hơn và biển có thể yên lặng.
Thế
là cuộc hành trình vượt biển đang
diễn ra theo kế hoạch. Trên ghe có già trẻ,
trai gái và gồm đủ thành phần trong xã
hội đều cùng chung ước mơ ra khơi tìm
Tự Do.
…Đêm nay trên bản đồ
có một thuyền ra đi
Hiên ngang trên sóng gào tự do đón chào
Xin chào tự do với nỗi niềm cay đắng
Nhìn lại bên bờ nước non mình mỗi mặt
Khóc nghẹn ngào
Hò ơi! Hò ới! tạm biệt nước non…
Hiên ngang trên sóng gào tự do đón chào
Xin chào tự do với nỗi niềm cay đắng
Nhìn lại bên bờ nước non mình mỗi mặt
Khóc nghẹn ngào
Hò ơi! Hò ới! tạm biệt nước non…
(Trích Đêm Chôn Dầu Vượt Biển)
Sau
5 ngày đêm vượt trùng dương bát ngát, lướt
sóng gió, đi trong mưa hướng về Tân Gia Ba.
Một
ngày
nọ chúng tôi thấy 3 ghe Thái Lan đang đánh cá.
Chúng tôi quyết định đến gần chúng
để hỏi biết vị trí ghe đang ở
đâu trên biển. Có lẽ vì bận đánh cá nên
chúng cứ thản nhiên chạy đi hướng khác.
Họ không màn đến chúng tôi muốn tới
gần họ. Chúng tôi dùng hoả châu phóng lên tia
hồng ngoại tím thì họ mới dừng lại.
Khi đến gần họ, tôi đứng trên mui ghe
và hỏi chúng bằng tiếng Anh để biết
vị trí ghe đang ở đâu. Đồng thời,
tôi dùng sợi dây nhỏ cột tấm bản đồ
chuyển qua cho họ để họ xác định
trên tấm bản đồ vị trí chiếc ghe
của chúng tôi đang đi vì họ có radar. Ngoài ra
chúng tôi còn xin được thêm 2 thùng nước
uống, khoảng 50 lít.
Sau đó ghe chúng tôi tiếp tục nhắm hướng
Tân Gia Ba mà chạy. Đi được một ngày
thì bổng nhiên tôi nhìn thấy từ xa xa ở hướng
nam hiện ra một đốm đen. Dùng ống dòm
để xem, tôi mới rõ đó là chiếc máy
bay trực thăng đang bay về hướng chúng tôi.
Trực thăng
càng lúc càng hiện rõ hơn.
Chúng
tôi, tất cả mọi người trên ghe rất
vui mừng khi thấy trên máy bay trực thăng,
một người chỉ tay vào chúng tôi và ra dấu
tiếp tục đi về hướng nam. Nhìn về
hướng nam chúng tôi thấy một con tàu rất
lớn từ từ hiện ra. Và sau 2 tiếng đồng
hồ thì tàu đã đến gần chúng tôi. Trên tàu,
thuỷ thủ đoàn phóng loa kêu gọi chúng tôi
đừng sợ hải, hảy bình tỉnh. „Đây
là tàu CAP ANAMUR của Tây Đức đang cứu
vớt các bạn“ .
Thế
là mọi người trên ghe đều lộ vẻ
vui mừng nhưng tôi vẫn yêu cầu họ bình
tỉnh, ở đâu ngồi đó. Nếu họ di
động không trật tự thì ghe có thể bị
lật úp hoặc bị vô nước và chìm,
nhất là lúc ghe đang cập vào tàu. Lần nữa,
mọi người nghe lời yêu cầu của tôi và
ở đâu ngồi đó. Họ cũng đã
thấy vợ và 2 con của tôi cũng ngồi yên
tại chổ. Bây giờ tôi cảm thấy khả năng
hàng hải rất hửu dụng của mình sau 2 năm
được đào tạo ở trường Sĩ
quan Hải quân Nha trang và gần 9 tháng thực
tập trên các chiến hạm HQ471, HQ10 trước khi được
thụ huấn ở trường Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang cũng như những
năm phục vụ trên Dương Vận Hạm Vũng Tàu HQ 503 sau khi tốt
nghiệp.
Sau
khi ghe tôi đã được cập vào tàu,
những thuỷ thủ của tàu Cap Anamur cũng
bắt đầu xuống ghe tôi và họ dùng cần
cẩu trên boong tàu để giúp chúng tôi lần lượt
đưa 148 người trên ghe lên tàu của họ
và tôi rời khỏi ghe sau cùng. Sau khi mọi người
trên ghe đã được di chuyển lên tàu
lớn (Cap Anamur) thì thuỷ thủ đoàn đã phá
huỷ ghe chúng tôi để nhận chìm xuống
đáy biển. Chiếc ghe thật mỏng manh đối
với biển cả mênh mông, giờ đây từ
từ đi vào lòng biển. Tôi hướng mắt nhìn
ghe lần cuối, hiện lên một vẻ buồn không
tưởng, nhưng với tâm niệm „có
sinh thì có diệt“ theo giáo lý nhà Phật, tôi cũng
cố quên đi. Tôi thầm cảm ơn chiếc ghe
đã cưu mang 148 đồng bào thân yêu bỏ nước
ra đi, trong đó có tôi cùng gia đình. Ghe đã
đưa chúng tôi đến bờ tự do. Trên tàu,
chúng tôi được thuyền trưởng cùng
thuỷ thủ đoàn chào đón một cách niềm
nỡ và họ nấu cháo cho chúng tôi ăn sau
nhiều ngày đói khác trên biển. Họ cũng săn
sóc thuốc men cho chúng tôi nếu có người
bệnh hoạn.
Sau
khi họ đã cứu vớt chúng tôi, tàu tiếp
tục di chuyển trên biển đông ở gần
bờ biển Việt
Nam
khoảng 7 ngày nữa để tiếp tục
cứu vớt thêm 4 chiếc ghe vượt biên khác,
tiếp nhận khoảng trên 500 người.
Tại
hải cảng Tân Gia Ba
Sau
cùng, con tàu ân nhân Cap Anamur chở chúng tôi đến
hải cảng Tân Gia Ba vào những ngày đầu tháng
7 năm 1980 và neo trong cảng. Tàu không cập bến.
Ở đó chúng tôi được chích thuốc
ngừa. Không một ai được lên bờ. Cao
Uỷ Liên hiệp Quốc tại Tân Gia Ba cũng
xuống tàu để phỏng vấn chúng tôi. Người
nào có thân nhân ở hải ngoại thì được
ưu tiên thiết lập danh sách đi đoàn tụ
gia đình nhưng họ cũng phải đến
trại tị nạn tạm trú một thời gian. Riêng
vợ chồng tôi thì bấy giờ có người bác
phía vợ đang là luật sư bên Gia Nã Đại.
Nhưng khi tôi trình bày nguyện vọng muốn đi
Mỹ thì Cao Uỷ Liên Hiệp Quốc nói rằng: Bạn
và gia đình đã được tàu Tây Đức
vớt, vậy bạn và gia đình có thể ưu tiên
đi Tây Đức. Nếu bạn đồng ý thì
trong mấy ngày nữa bạn sẽ đi ngay và không
cần lên trại tị nạn chờ đợi. Tuy
nhiên bạn cũng có thể đi Gia Nã Đại
theo diện bảo lãnh, nhưng bạn và gia đình cũng
phải qua tạm trú tại trại tị nạn
ở Nam
Dương một thời gian để chờ bác
của bạn bảo lãnh. Khi tôi hỏi về
thời gian chờ đợi ở đảo thì cao
uỷ LHQ không thể cho biết là bao lâu. Điều
đó tuỳ thuộc vào sự bảo lãnh cũng như
lệ thuộc vào chính quyền Gia Nã Đại. Bác
tôi tốt nghiệp Luật sư tại Pháp, làm việc trong Bộ Ngoại
Giao VNCH và cũng đã từng tham dự và cố vấn Pháp luật cho
phái đoàn VNCH tại Hội Đàm Paris. Tôi hy vọng
về sự bảo lảnh của bác tôi. Tuy nhiên khi tôi hỏi về thời gian chờ
đợi ở đảo thì cao uỷ LHQ không
thể cho biết là bao lâu. Họ chỉ trả lời: Điều
đó tuỳ thuộc vào sự bảo lãnh cũng như
lệ thuộc vào chính quyền Gia Nã Đại. Sau
khi được phỏng vấn, tôi đã thảo
luận với vợ về vấn đề đi
định cư ở nước thứ ba. Vợ
chồng chúng tôi cũng ngại ngùng ở đảo
vì có 2 con còn quá nhỏ. Cháu lớn nhất lúc
bấy giờ được 3 tuổi và cháu thứ
hai chỉ được 18 tháng. Hơn nữa chúng tôi
cũng không muốn cậy nhờ ông bác ở Gia Nã
Đại bảo lảnh. Thế thì tôi quyết
định đưa gia đình qua Tây Đức xin
tị nạn cọng sản. Tôi tâm niệm: „trời
sinh voi, sinh cỏ“. Vợ chồng tôi đồng quan
điểm rằng ở đâu có Tự Do Dân
Chủ là nơi đó chúng tôi có thể định
cư và sẽ cố gắng xây dựng lại
cuộc đời mới. Chúng tôi đã trải qua
nhiều hiểm nguy, nhiều lần bị bắn ở
những lần vượt biên trước đây, quá nhiều cay đắng,
gặp nhiều
gian truân, nhiều lần vô tù. Vợ con tôi cũng
chịu cùng cảnh ngộ, cũng chịu đói khác,
bịnh hoạn như mọi người tù khác.
Giờ đây chúng tôi đã may mắn gặp
được tàu cứu vớt thì dù có đi định
cư bất cứ ở xứ nào cũng đều
tốt cả, miễn sao xứ đó có Tự Do Dân
Chủ là được rồi.
Nhớ
lại những năm xưa, mỗi lần vợ tôi
sinh con là tôi bị ở trong tù. Con đầu lòng
được sinh ra khi tôi ở trong “tù cải
tạo” được 8 tháng tại Trảng Lớn,
Tây Ninh. Con thứ hai được sinh ra khi tôi ở
tù vượt biên tại Côn Đảo. Với tâm
niệm: “Chỉ có tinh thần là
quan trọng”, một bài học rất quý giá,
hàm súc nhiều ý nghĩa thâm sâu mà tôi học
được từ Trường Sĩ Quan Hải Quân
Nha Trang của thuở nào đã giúp tôi nhiều
nghị lực để vượt qua mọi trở
ngại và tiến lên. Suy gẫm cuộc đời, bài
học đó đã được chứng minh.
Ngày
đầu tiên đến Tây Đức
Khi
tôi quyết định đưa gia đình đi Tây
Đức để định cư, thì Cao Uỷ Liên
Hiệp Quốc lo tiếp thủ tục giấy
tờ cho gia đình tôi. Thế là sau vài ngày chờ
đợi trên tàu Cap Anamur ở hải cảng Tân Gia
Ba, gia đình tôi cùng với một số bà con vượt
biên khác được chích thuốc ngừa và được phân phối quần áo mới
để đi định cư tại Cọng Hoà Liên
Bang Đức (Bundes Republik Deutschland) ở Tây Đức
(West Germany).
Một
buổi sáng tinh sương, chúng tôi được hướng
dẫn lên xe buýt để được chở ra
phi trường Tân Gia Ba. Xe
buýt chạy xuyên qua thành phố Tân Gia Ba,
có cả thuyền trưởng
tàu Cap Anamur là ông Werner Urban cùng đi về Tây Đức.
Một thành
phố rất khang trang và sạch sẻ. Rất
tiếc rằng tôi chưa có dịp để thăm
phố thị muôn màu của bán đảo nầy.
Tôi
còn nhớ khi ông thuyền trưởng Werner Urban cùng đi với chúng tôi đến
phi trường Tân Gia Ba, ông ta ứa nước mắt trước khi vào máy
bay. Có lẽ ông rất xúc động đã cứu được nhiều thuyền
nhân và giờ đây họ sẽ lên đường đến một xứ lạ là
quê hương của ông, một quê hương đang có Tự Do Dân Chủ và
đang có những hành động nhân đạo. Năm
1979 Liên Hiệp Quốc họp tại Geneve đã yêu cầu những quốc
gia Tây Âu cứu nhận nạn nhân Đông Dương nhất là đồng bào
chạy tị nạn từ Việt Nam. Riêng Tây Đức đã đồng ý sẽ
nhận khoảng 30.000 người tị nạn từ Đông
Nam Á, đặc biệt
là từ Việt Nam.
Sau thời gian ngắn xe buýt đã đến phi trường
Tân Gia Ba.
Vào
buổi chiều tối, chiếc phi cơ Lufthansa của Tây Đức
chở 145 người vượt biên xin tị
nạn tại Tây Đức, trong đó có gia đình
tôi rời phi trường Tân Gia Ba. Sau khoảng 12 giờ bay vào ban đêm,
phi cơ hạ cánh tại phi trường Frankfurt am Main, Tây
Đức vào
buổi sáng sớm ngày 15.7.1980.
Tại
đây, một số người tị nạn trong nhóm
chúng tôi được đổi máy bay tiếp
tục đi lên miền Bắc Đức ở
Hamburg, hoặc đến tiểu bang Rheinland-Pfalz,
hoặc đi Saarbrücken. Một số người
đi lên thành phố Bremen. Một số khác đi qua Tây Bá Linh. Tây Bá Linh
nằm trong lòng Đông Đức. Lúc bấy giờ thành phố Bá Linh được
chia làm hai phần bởi bức tường ô
nhục do chính quyền cọng sản Đông Đức
dựng lên vào ngày 13.8.1961 để chia thành phố Bá
Linh ra làm hai nhằm ngăn chận dân chúng Đông
Đức từ bỏ chế độ cọng
sản để chạy sang Tây Bá Linh là phần
đất tự do để tị nạn. Sau đệ
Nhị thế chiến, Đức Quốc Xã thua
trận nên một nửa thành phố đông Bá Linh
thuộc về quân đội Nga quản chế và
một nửa thành phố tây Bá Linh thuộc về quân
đội đồng minh Mỹ, Anh, Pháp. Chung quanh thành
phố Bá Linh thuộc nước Cọng Hoà Dân
Chủ Đức (DDR: Deutsche Demokratische Republik). Đó
là quốc gia theo chế độ cọng sản.
May
mắn thay, gia đình tôi không đi Bá Linh. Chúng tôi cùng
một số người tị nạn khác, tổng
cọng khoảng 100 người ở lại chờ
đợi để đổi máy bay đi đến
phi trường Düsseldorf thuộc tiểu bang
Nordrhein-Westfalen bên Tây Đức.
Trong
lúc chờ máy bay để
đi tiếp tục, tôi và
2 con đứng bên cửa sổ của phòng chờ
đợi, hướng mắt ra xa. Nhìn qua cửa
kiếng, hướng về những cao ốc, tôi
đoán rằng đó là trung tâm thành phố
Frankfurt
. Lòng mình xôn xao làm sao. Suy nghĩ về quá khứ,
nhớ về quê hương rồi nhìn về tương
lai, tôi cảm thấy buồn vui lẫn lộn. Nghĩ
về cuộc đời binh nghiệp, đã bao nhiêu
năm chinh chiến, tôi suy tưởng, ít ra mình cũng
đóng góp phần nào cho quê hương, cho Tổ
Quốc để bảo vệ tiền đồn
Tự Do. Bây giờ có rời xa quê hương mình cũng
không ân hận cho lắm.
Rồi
tôi thầm nghĩ, nếu không có ngày 30.4.1975 thì hy
vọng vào năm 1975 mình cũng sẽ có cơ hội được qua Mỹ du
học 153 tuần thuộc chương trình đào
tạo Master of Art hoặc Master of Science hoặc cao hơn
cho những sĩ quan có văn bằng cử nhân
nhằm sau nầy góp phần tái thiết đất nước
thời hậu chiến sau khi Hiệp định Paris
được ký ngày 27.1.1973, chiếu theo Thông Tư
của Tổng Tham mưu Quân lực VNCH năm 1974.
Đến tháng 4 năm 1975 tôi đã học xong chương
trình Ban Cử nhân thuộc Đại học Luật
Khoa Sài Gòn. Niềm mơ ước ngày ấy không
trở thành sự thật. Và giờ đây hiện diện nơi xứ người tôi
thì thầm:
„Nhớ
nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia“…
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia“…
Tây
Đức
mùa nắng hạ 2008
Nguyễn văn Phảy
vgpgermany@gmx.net
Nguyễn văn Phảy
vgpgermany@gmx.net
Ghi
chú: Một số hình ảnh trên được
trích trong cuốn sách “Thế Kỹ Người
Tị Nạn”(Das Jahrhundert der Flüchtlinge) do Uỷ Ban Bác
Sĩ Cấp Cứu Đức (Deutsches Komitee NOT-Ärzte)
biên soạn.
(Mời
xem tiếp phần 2:
Tị Nạn và Cuộc Đời- Cuộc Đời
Mới)http://navygermany.gerussa.com/main/van%20nghe/baivo/Lan%20vuot%20bien%20sau%20cung.htm
Thuyền nhân lênh đênh.... đáp về miền đất hứa... Còn con tàu blog Già Hú thông báo chìm vào ngày 17-01-2013 ... win mình sẽ mang hết tài sản về blogspot... và còm cho Ròm một nhát làm con ma đi lòm khòm cho người ta dòm nhá hehehehehe....
Trả lờiXóaSao lại là ngày 17-1-2013 vậy anh ?
Xóa