Nam Ròm




Hình xưa VNCH
Tin tức đó đây
Sách xưa thời VNCH
Hình vui Ảnh đẹp
Thơ vui, chuyện tiếu , mẹo vặt linh tinh ...

Thứ Ba, 11 tháng 12, 2012

Tỵ Nạn và Cuộc Đời: Lần vượt biên sau cùng 23.6.1980

T Nạn và Cuộc Đời:  
Phần 1
 
Lần vượt biên sau cùng 23.6.1980
Nguyễn văn Phảy


Hôm nay ngày 23 tháng 6 là ngày đánh dấu 28 năm xa quê hương và cũng là ngày sinh nhật của con gái tròn 21 tuổi, sinh tại Tây Đức và đã tốt nghiệp đại học New York University-Stern School of Business, ngành Tài Chánh (Finance) lúc còn 20 tuổi, trong văn bằng tốt nghiệp được ghi hạng tối ưu (cum laude) và cháu cũng nhận được bằng ban khen với tên của Đại học. Cháu cũng được Investment Bank Goldmann Sach tại New York đồng ý nhận làm việc trước khi ra trường. Đó là niềm vui cho gia đình chúng tôi và cũng là động lực thúc đẩy tôi ghi lại đôi giòng về Thuyền Nhân (Boat People).
 Mặc dù thời gian trôi qua thật nhanh, nhưng nhiều hình ảnh ra đi vượt biên vẫn còn đọng lại tiềm tàng trong trí ức. Làm sao tôi quên được những sự ra đi quá hải hùng của những đứa con của Mẹ Việt Nam, những người đi tìm tự do, tìm cái sống trong cái chết của mình, mà thế giới gọi là thuyền nhân „Boat People“,.
... Đêm nay đêm tối trời, tôi bỏ quê hương  
Ra đi trên chiếc thuyền hy vọng vượt trùng dương  

Em đâu đâu có ngờ đêm buồn
Bỏ lại em cay đắng thật thương
Hò ơi, hò ơi, tạm biệt nước non…  
(Trích Đêm Chôn Dầu Vượt Biển)
Vào một đêm mùa hè trăng sao, ban ngày trời nóng chan chan, nắng cháy da người. Tôi cùng vợ và 2 con từ Sài Gòn đi xe đò về Tây Đô thân yêu. Tối hôm đó, tôi cùng gia đình vợ và 2 con được hướng dẫn lên một chiếc ghe rất nhỏ. Chiếc ghe nhỏ nầy đã được cất dấu nhiều ngày trong 1 con lạch, được che bởi những khóm cây dừa nước tại vùng Cần Thơ, chuẩn bị di chuyển người ra một chiếc ghe lớn để đưa chúng tôi vượt biên. Chiếc ghe lớn đang đậu núp ở một ven bờ Tiền Giang, hướng ra biển. Ghe lớn có chiều dài 12,5m và chiều ngang khoảng 2,5m.
Trong lúc chiếc ghe nhỏ luồn lướt qua những con lạch, băng qua những khóm dừa nước, lao nhao đôi chú ếch nhái, ểnh ương đang đi tìm mồi và đùa giởn réo gọi nhau bỗng dưng yên lặng, trả lại cho màn đêm tịch mịch. Nhưng rồi, xa xa vọng lại những tiếng rên rĩ của côn trùng, tiếng kêu của những lũ ếch nhái khác hoà với làn gió nhè nhẹ thổi vào đêm trăng mùa hè cùng với bóng dáng của cành lá cây, rào rạc ở hai bên bờ rạch, lúc ẩn lúc hiện tạo nên một âm thanh khó hiểu, huyền dịu. Chúng có thấu hiểu chăng?. Chúng tôi không phải là kẻ săn bắt chúng hay phá rầy sự sống của chúng. Chúng tôi là những người đang tìm đường vượt biên với tâm lý vừa vui buồn lẫn sợ hải. Đôi khi tôi nghĩ ngợi, mình cũng thầm cảm ơn những chú ếch nhái và côn trùng, cây, gió. Nhờ có chúng mà chúng tôi không bị lộ tông tích vì tiếng ồn do chúng tôi có thể phát ra trong lúc di chuyển.
Sau một thời gian lặng lẽ âm thầm ra đi trong đêm tối, chúng tôi vượt ra khỏi rạch nhỏ thì vào sông Tiền Giang, rồi đến ghe lớn. Lúc đó vào khoảng 1 giờ sáng. Trên ghe lớn cũng đã có một số người từ những ghe nhỏ khác đã được đưa đến. Rồi dần dần có thêm nhiều ghe nhỏ nữa chở thêm người tới.  

Ngay từ những ngày đầu chuẩn bị, sau khi người chủ mua ghe và trang bị máy móc ở vùng Hà Tiên, Rạch Giá, tôi đã có nhiều lần xuống vùng đó để kiểm soát lườn ghe cũng như xem xét máy móc được trang bị như thế nào. Khi thử chạy máy và kiểm soát kỷ lườn ghe thì thấy tất cả đều tốt. Chủ ghe cũng cho tôi biết rằng ghe sẽ chở khoảng 80 người mà thôi. Nghe vậy, tôi nghĩ rằng với chiếc ghe nhỏ như thế nầy cũng có thể vượt biển được mặc dù trên đường đi có gặp biển động. Nhưng khi tôi lên ghe lớn chừng 1 giờ thì thấy quá nhiều người trên ghe rồi. Chiếc ghe quá tải, tưởng chừng sắp bị chìm. Với số lượng người đông như thế này, tôi đoán có khoảng trên 170 người. Chiếc ghe đang còn ở trên sông, nước phẳng lặng mà đã xem như sắp chìm rồi thì làm sao ra biển đi được. Thấy vậy, tôi đã kêu gọi những người đang chuẩn bị lên ghe lớn sau cùng nên hảy ở lại quê hương và trở về nhà thì tốt hơn. Nếu không, khi ra biển, gặp sóng gió lớn, ghe sẽ bị chìm ngay và sẽ chết hết. Sau khi nghe tôi nói như vậy họ đã hiểu, cho nên một số người còn đang ở trên ghe nhỏ họ không bước lên ghe lớn nữa, cũng như một số người đã lên được ghe lớn họ cũng bước xuống ghe nhỏ mà trở về. Mặc dù vậy, chiếc ghe vẫn còn quá tải. Lườn ghe đã chìm sâu, chỉ còn khoảng 10 cm nổi trên mặt nước mà thôi. Riêng cá nhân tôi, với nhiều năm đi tàu biển, có nhiều kinh nghiệm về sóng gió, biết rằng với chiếc ghe nhỏ như thế nầy mà chở gần 150 người thì rất lo lắng. Nhưng tôi đang ở vào vị thế tiến thoái lưỡng nan. Đây là lần vượt biên thứ ba sau khi tôi bị đi „tù cải tạo“ về. Hai lần vượt biên trước, ghe tôi cũng đã ra tới ngoài biển được rồi nhưng vì bị trở ngại kỹ thuật, ghe không chạy tiếp được, cuối cùng phải bị bắt và vào tù trở lại. Lần nầy nếu tôi và gia đình không đi, khi lên bờ trở lại có thể tôi sẽ bị bắt. Nếu tôi bị bắt mà còn bị lộ ra tông tích rằng mình là một cựu Sĩ Quan Hải Quân của Quân Lực Việt Nam Cọng Hoà và đã nhiều lần vượt biên bị bắt thì có thể lần nầy tôi sẽ bị nhốt vào tù và khó có ngày về đoàn tụ gia đình. Do đó, tôi quyết định ở lại trên ghe để hướng dẩn ghe đi vượt biên. Tôi thừa hiểu rằng trên đường vượt biển có thể có nhiều nguy hiểm xảy ra, nhưng tôi không có con đường lựa chọn nào khác. Tôi chỉ hy vọng rằng vào mùa hè, sóng gió sẽ êm dịu hơn và biển có thể yên lặng.  
Thế là cuộc hành trình vượt biển đang diễn ra theo kế hoạch. Trên ghe có già trẻ, trai gái và gồm đủ thành phần trong xã hội đều cùng chung ước mơ ra khơi tìm Tự Do.
…Đêm nay trên bản đồ có một thuyền ra đi
Hiên ngang trên sóng gào tự do đón chào

Xin chào tự do với nỗi niềm cay đắng
Nhìn lại bên bờ nước non mình mỗi mặt
Khóc nghẹn ngào
Hò ơi! Hò ới! tạm biệt nước non…  
(Trích Đêm Chôn Dầu Vượt Biển)
Sau 5 ngày đêm vượt trùng dương bát ngát, lướt sóng gió, đi trong mưa hướng về Tân Gia Ba. Một ngày nọ chúng tôi thấy 3 ghe Thái Lan đang đánh cá. Chúng tôi quyết định đến gần chúng để hỏi biết vị trí ghe đang ở đâu trên biển. Có lẽ vì bận đánh cá nên chúng cứ thản nhiên chạy đi hướng khác. Họ không màn đến chúng tôi muốn tới gần họ. Chúng tôi dùng hoả châu phóng lên tia hồng ngoại tím thì họ mới dừng lại. Khi đến gần họ, tôi đứng trên mui ghe và hỏi chúng bằng tiếng Anh để biết vị trí ghe đang ở đâu. Đồng thời, tôi dùng sợi dây nhỏ cột tấm bản đồ chuyển qua cho họ để họ xác định trên tấm bản đồ vị trí chiếc ghe của chúng tôi đang đi vì họ có radar. Ngoài ra chúng tôi còn xin được thêm 2 thùng nước uống, khoảng 50 lít.
 Truc thang dang roi tau Cap Anamur de tim kiem ghe vuot bien de cuu vot Sau đó ghe chúng tôi tiếp tục nhắm hướng Tân Gia Ba mà chạy. Đi được một ngày thì bổng nhiên tôi nhìn thấy từ xa xa ở hướng nam hiện ra một đốm đen. Dùng ống dòm  để xem, tôi mới rõ đó là chiếc máy bay trực thăng đang bay về hướng chúng tôi. Trực thăng càng lúc càng hiện rõ hơn.          
Chúng tôi, tất cả mọi người trên ghe rất vui mừng khi thấy trên máy bay trực thăng, một người chỉ tay vào chúng tôi và ra dấu tiếp tục đi về hướng nam. Nhìn về hướng nam chúng tôi thấy một con tàu rất lớn từ từ hiện ra. Và sau 2 tiếng đồng hồ thì tàu đã đến gần chúng tôi. Trên tàu, thuỷ thủ đoàn phóng loa kêu gọi chúng tôi đừng sợ hải, hảy bình tỉnh. „Đây là tàu CAP ANAMUR của Tây Đức đang cứu vớt các bạn“ . Phay dang chuan bi cap ghe vao tau Cap Anamur  

Thế là mọi người trên ghe đều lộ vẻ vui mừng nhưng tôi vẫn yêu cầu họ bình tỉnh, ở đâu ngồi đó. Nếu họ di động không trật tự thì ghe có thể bị lật úp hoặc bị vô nước và chìm, nhất là lúc ghe đang cập vào tàu. Lần nữa, mọi người nghe lời yêu cầu của tôi và ở đâu ngồi đó. Họ cũng đã thấy vợ và 2 con của tôi cũng ngồi yên tại chổ. Bây giờ tôi cảm thấy khả năng hàng hải rất hửu dụng của mình sau 2 năm được đào tạo ở trường Sĩ quan Hải quân Nha trang và gần 9 tháng thực tập trên các chiến hạm HQ471, HQ10 trước khi được thụ huấn ở trường Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang cũng như những năm phục vụ trên Dương Vận Hạm Vũng Tàu HQ 503 sau khi tốt nghiệp.   
Sau khi ghe da duoc cap vao tau Cap Anamur Phay lien lac voi nhan vien tren tau de di chuyen thuyen nhan len tau Cap Anamur
Sau khi ghe tôi đã được cập vào tàu, những thuỷ thủ của tàu Cap Anamur cũng bắt đầu xuống ghe tôi và họ dùng cần cẩu trên boong tàu để giúp chúng tôi lần lượt đưa 148 người trên ghe lên tàu của họ và tôi rời khỏi ghe sau cùng. Sau khi mọi người trên ghe đã được di chuyển lên tàu lớn (Cap Anamur) thì thuỷ thủ đoàn đã phá huỷ ghe chúng tôi để nhận chìm xuống đáy biển. Chiếc ghe thật mỏng manh đối với biển cả mênh mông, giờ đây từ từ đi vào lòng biển. Tôi hướng mắt nhìn ghe lần cuối, hiện lên một vẻ buồn không tưởng, nhưng với tâm niệm „có sinh thì có diệt“ theo giáo lý nhà Phật, tôi cũng cố quên đi. Tôi thầm cảm ơn chiếc ghe đã cưu mang 148 đồng bào thân yêu bỏ nước ra đi, trong đó có tôi cùng gia đình. Ghe đã đưa chúng tôi đến bờ tự do. Trên tàu, chúng tôi được thuyền trưởng cùng thuỷ thủ đoàn chào đón một cách niềm nỡ và họ nấu cháo cho chúng tôi ăn sau nhiều ngày đói khác trên biển. Họ cũng săn sóc thuốc men cho chúng tôi nếu có người bệnh hoạn. NV Phay dang huong dan vo, 2 con cung thuyen nhan len tu Cap Anamur
Sau khi họ đã cứu vớt chúng tôi, tàu tiếp tục di chuyển trên biển đông ở gần bờ biển Việt Nam khoảng 7 ngày nữa để tiếp tục cứu vớt thêm 4 chiếc ghe vượt biên khác, tiếp nhận khoảng trên 500 người.   
Tại hải cảng Tân Gia Ba  
Sau cùng, con tàu ân nhân Cap Anamur chở chúng tôi đến hải cảng Tân Gia Ba vào những ngày đầu tháng 7 năm 1980 và neo trong cảng. Tàu không cập bến. Ở đó chúng tôi được chích thuốc ngừa. Không một ai được lên bờ. Cao Uỷ Liên hiệp Quốc tại Tân Gia Ba cũng xuống tàu để phỏng vấn chúng tôi. Người nào có thân nhân ở hải ngoại thì được ưu tiên thiết lập danh sách đi đoàn tụ gia đình nhưng họ cũng phải đến trại tị nạn tạm trú một thời gian. Riêng vợ chồng tôi thì bấy giờ có người bác phía vợ đang là luật sư bên Gia Nã Đại. Nhưng khi tôi trình bày nguyện vọng muốn đi Mỹ thì Cao Uỷ Liên Hiệp Quốc nói rằng: Bạn và gia đình đã được tàu Tây Đức vớt, vậy bạn và gia đình có thể ưu tiên đi Tây Đức. Nếu bạn đồng ý thì trong mấy ngày nữa bạn sẽ đi ngay và không cần lên trại tị nạn chờ đợi. Tuy nhiên bạn cũng có thể đi Gia Nã Đại theo diện bảo lãnh, nhưng bạn và gia đình cũng phải qua tạm trú tại trại tị nạn ở Nam Dương một thời gian để chờ bác của bạn bảo lãnh. Khi tôi hỏi về thời gian chờ đợi ở đảo thì cao uỷ LHQ không thể cho biết là bao lâu. Điều đó tuỳ thuộc vào sự bảo lãnh cũng như lệ thuộc vào chính quyền Gia Nã Đại. Bác tôi tốt nghiệp Luật sư tại Pháp, làm việc trong Bộ Ngoại Giao VNCH và cũng đã từng tham dự và cố vấn Pháp luật cho phái đoàn VNCH tại Hội Đàm Paris. Tôi hy vọng về sự bảo lảnh của bác tôi. Tuy nhiên khi tôi hỏi về thời gian chờ đợi ở đảo thì cao uỷ LHQ không thể cho biết là bao lâu. Họ chỉ trả lời: Điều đó tuỳ thuộc vào sự bảo lãnh cũng như lệ thuộc vào chính quyền Gia Nã Đại. Sau khi được phỏng vấn, tôi đã thảo luận với vợ về vấn đề đi định cư ở nước thứ ba. Vợ chồng chúng tôi cũng ngại ngùng ở đảo vì có 2 con còn quá nhỏ. Cháu lớn nhất lúc bấy giờ được 3 tuổi và cháu thứ hai chỉ được 18 tháng. Hơn nữa chúng tôi cũng không muốn cậy nhờ ông bác ở Gia Nã Đại bảo lảnh. Thế thì tôi quyết định đưa gia đình qua Tây Đức xin tị nạn cọng sản. Tôi tâm niệm: „trời sinh voi, sinh cỏ“. Vợ chồng tôi đồng quan điểm rằng ở đâu có Tự Do Dân Chủ là nơi đó chúng tôi có thể định cư và sẽ cố gắng xây dựng lại cuộc đời mới. Chúng tôi đã trải qua nhiều hiểm nguy, nhiều lần bị bắn ở những lần vượt biên trước đây, quá nhiều cay đắng, gặp nhiều gian truân, nhiều lần vô tù. Vợ con tôi cũng chịu cùng cảnh ngộ, cũng chịu đói khác, bịnh hoạn như mọi người tù khác. Giờ đây chúng tôi đã may mắn gặp được tàu cứu vớt thì dù có đi định cư bất cứ ở xứ nào cũng đều tốt cả, miễn sao xứ đó có Tự Do Dân Chủ là được rồi.  
Nhớ lại những năm xưa, mỗi lần vợ tôi sinh con là tôi bị ở trong tù. Con đầu lòng được sinh ra khi tôi ở trong “tù cải tạo” được 8 tháng tại Trảng Lớn, Tây Ninh. Con thứ hai được sinh ra khi tôi ở tù vượt biên tại Côn Đảo. Với tâm niệm: “Chỉ có tinh thần là quan trọng”, một bài học rất quý giá, hàm súc nhiều ý nghĩa thâm sâu mà tôi học được từ Trường Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang của thuở nào đã giúp tôi nhiều nghị lực để vượt qua mọi trở ngại và tiến lên. Suy gẫm cuộc đời, bài học đó đã được chứng minh. 
Ngày đầu tiên đến Tây Đức  
Khi tôi quyết định đưa gia đình đi Tây Đức để định cư, thì Cao Uỷ Liên Hiệp Quốc lo tiếp thủ tục giấy tờ cho gia đình tôi. Thế là sau vài ngày chờ đợi trên tàu Cap Anamur ở hải cảng Tân Gia Ba, gia đình tôi cùng với một số bà con vượt biên khác được chích thuốc ngừa và được phân phối quần áo mới để đi định cư tại Cọng Hoà Liên Bang Đức (Bundes Republik Deutschland) ở Tây Đức (West Germany).  
May bay Lufthansa cho Boat People tu Tan Gia Ba sang Tay Duc ngay 14-15.07.1980Một buổi sáng tinh sương, chúng tôi được hướng dẫn lên xe buýt để được chở ra phi trường Tân Gia Ba. Xe buýt chạy xuyên qua thành phố Tân Gia Ba, có cả thuyền trưởng tàu Cap Anamur là ông Werner Urban cùng đi về Tây Đức.  Một thành phố rất khang trang và sạch sẻ. Rất tiếc rằng tôi chưa có dịp để thăm phố thị muôn màu của bán đảo nầy.
Tôi còn nhớ khi ông thuyền trưởng Werner Urban cùng đi với chúng tôi đến phi trường Tân Gia Ba, ông ta ứa nước mắt trước khi vào máy bay. Có lẽ ông rất xúc động đã cứu được nhiều thuyền nhân và giờ đây họ sẽ lên đường đến một xứ lạ là quê hương của ông, một quê hương đang có Tự Do Dân Chủ và đang có những hành động nhân đạo. Năm 1979 Liên Hiệp Quốc họp tại Geneve đã yêu cầu những quốc gia Tây Âu cứu nhận nạn nhân Đông Dương nhất là đồng bào chạy tị nạn từ Việt Nam. Riêng Tây Đức đã đồng ý sẽ nhận khoảng 30.000 người tị nạn từ Đông Nam Á, đặc biệt là từ Việt Nam.  
Sau thời gian ngắn xe buýt đã đến phi trường Tân Gia Ba. 
Vào buổi chiều tối, chiếc phi cơ Lufthansa của Tây Đức chở 145 người vượt biên xin tị nạn tại Tây Đức, trong đó có gia đình tôi rời phi trường Tân Gia Ba. Sau khoảng 12 giờ bay vào ban đêm, phi cơ hạ cánh tại  phi trường Frankfurt am Main, Tây Đức vào buổi sáng sớm ngày 15.7.1980.
Tại đây, một số người tị nạn trong nhóm chúng tôi được đổi máy bay tiếp tục đi lên miền Bắc Đức ở Hamburg, hoặc đến tiểu bang Rheinland-Pfalz, hoặc đi Saarbrücken. Một số người đi lên thành phố Bremen. Một số khác đi qua Tây Bá Linh. Tây Bá Linh nằm trong lòng Đông Đức. Lúc bấy giờ thành phố Bá Linh được chia làm hai phần bởi bức tường ô nhục do chính quyền cọng sản Đông Đức dựng lên vào ngày 13.8.1961 để chia thành phố Bá Linh ra làm hai nhằm ngăn chận dân chúng Đông Đức từ bỏ chế độ cọng sản để chạy sang Tây Bá Linh là phần đất tự do để tị nạn. Sau đệ Nhị thế chiến, Đức Quốc Xã thua trận nên một nửa thành phố đông Bá Linh thuộc về quân đội Nga quản chế và một nửa thành phố tây Bá Linh thuộc về quân đội đồng minh Mỹ, Anh, Pháp. Chung quanh thành phố Bá Linh thuộc nước Cọng Hoà Dân Chủ Đức (DDR: Deutsche Demokratische Republik). Đó là quốc gia theo chế độ cọng sản. 
May mắn thay, gia đình tôi không đi Bá Linh. Chúng tôi cùng một số người tị nạn khác, tổng cọng khoảng 100 người ở lại chờ đợi để đổi máy bay đi đến phi trường Düsseldorf thuộc tiểu bang Nordrhein-Westfalen bên Tây Đức.  NV Phay cung 2 con noi phong doi phi truong Frankfurt am Main 15.7.1980
Trong lúc chờ máy bay đ đi tiếp tục, tôi và 2 con đứng bên cửa sổ của phòng chờ đợi, hướng mắt ra xa. Nhìn qua cửa kiếng, hướng về những cao ốc, tôi đoán rằng đó là trung tâm thành phố Frankfurt . Lòng mình xôn xao làm sao. Suy nghĩ về quá khứ, nhớ về quê hương rồi nhìn về tương lai, tôi cảm thấy buồn vui lẫn lộn. Nghĩ về cuộc đời binh nghiệp, đã bao nhiêu năm chinh chiến, tôi suy tưởng, ít ra mình cũng đóng góp phần nào cho quê hương, cho Tổ Quốc để bảo vệ tiền đồn Tự Do. Bây giờ có rời xa quê hương mình cũng không ân hận cho lắm.  
Rồi tôi thầm nghĩ, nếu không có ngày 30.4.1975 thì hy vọng vào năm 1975 mình cũng sẽ có cơ hội được qua Mỹ du học 153 tuần thuộc chương trình đào tạo Master of Art hoặc Master of Science hoặc cao hơn cho những sĩ quan có văn bằng cử nhân nhằm sau nầy góp phần tái thiết đất nước thời hậu chiến sau khi Hiệp định Paris được ký ngày 27.1.1973, chiếu theo Thông Tư của Tổng Tham mưu Quân lực VNCH năm 1974. Đến tháng 4 năm 1975 tôi đã học xong chương trình Ban Cử nhân thuộc Đại học Luật Khoa Sài Gòn. Niềm mơ ước ngày ấy không trở thành sự thật. Và giờ đây hiện diện nơi xứ người tôi thì thầm:  
„Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia“
 

Tây Đức mùa nắng hạ 2008
Nguy
ễn văn Phảy
vgpgermany@gmx.net
 
 Ghi chú: Một số hình ảnh trên được trích trong cuốn sách “Thế Kỹ Người Tị Nạn”(Das Jahrhundert der Flüchtlinge) do Uỷ Ban Bác Sĩ Cấp Cứu Đức (Deutsches Komitee NOT-Ärzte) biên soạn.
 (Mời xem tiếp phần 2: Tị Nạn và Cuộc Đời- Cuộc Đời Mới)

http://navygermany.gerussa.com/main/van%20nghe/baivo/Lan%20vuot%20bien%20sau%20cung.htm

2 nhận xét:

  1. Thuyền nhân lênh đênh.... đáp về miền đất hứa... Còn con tàu blog Già Hú thông báo chìm vào ngày 17-01-2013 ... win mình sẽ mang hết tài sản về blogspot... và còm cho Ròm một nhát làm con ma đi lòm khòm cho người ta dòm nhá hehehehehe....

    Trả lờiXóa

Bấm vào dưới avata "Tham gia trang web này " để có thể biết bài mới của Ròm