www.nguoi-viet.com
Monday, August 27, 2012 2:52:52 PM |
Nguyễn Hưng Quốc (VOA)
Trong phạm vi quốc gia, việc hình
thành ngôn ngữ chính thức bao giờ cũng đi liền với việc hình thành quốc gia.
Tinh túy của quốc gia bao giờ cũng là ý niệm về một bản sắc chung. Ý niệm về
bản sắc ấy được xây dựng từ nhiều yếu tố như một lịch sử chung, một truyền
thống chung, một thị trường chung hoặc thậm chí, một huyết thống chung.
Tất cả những cái gọi là chung ấy, thật
ra, không hẳn đã là chung: Chúng trở thành chung, nghĩa là được phổ cập rộng
rãi và trở thành niềm tin của quần chúng, từ đó, hình thành nên cái Benedict
Anderson gọi là “cộng đồng tưởng tượng” (imagined community), chủ yếu nhờ ba
yếu tố chính: Một, sự phát triển của kỹ thuật xuất bản và báo chí; hai, sự
thịnh phát của văn hóa bình dân; và ba, tiềm ẩn đằng sau cả hai yếu tố vừa
kể, là vai trò của một ngôn ngữ chung, thường được gọi là ngôn ngữ chính
thức, hoặc đơn giản hơn, quốc ngữ (national language). “Tiếng Anh ở Anh,
tiếng Pháp ở Pháp cũng như các ngôn ngữ ở các quốc gia Âu Châu khác đều được
chuẩn hóa, hợp thức hóa và trở thành ngôn ngữ thống trị trong xã hội cùng lúc
với quá trình hình thành quốc gia ở những nơi ấy.” (1)
Xin lưu ý: Ngôn ngữ chính thức của
quốc gia là một chọn lựa. Quốc gia nào cũng là sự kết hợp của nhiều bộ tộc và
nhiều sắc tộc với những văn hóa và ngôn ngữ khác nhau, do đó, quốc gia, tự
bản chất, bao giờ cũng có tính chất đa chủng tộc, đa văn hóa và đa ngôn ngữ.
Ví dụ, ai cũng biết, ở Việt Nam hiện nay, có trên 50 sắc tộc với trên 50 ngôn
ngữ khác nhau, tuy nhiên, chỉ có văn hóa và tiếng nói của người Kinh mới được
xem là chính thức và chính thống (2).
Mà không phải chỉ ở Việt Nam. Ở đâu
cũng thế. Ở Trung Quốc có đến 292 ngôn ngữ khác nhau nhưng chỉ có tiếng Hán
được xem là ngôn ngữ quốc gia. Ở Mỹ có đến khoảng 337 ngôn ngữ khác nhau
nhưng chỉ có tiếng Anh được xem (một cách mặc nhiên) là ngôn ngữ chính thức
(3). Ở Úc cũng vậy, cũng chỉ có tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức trong khi
hàng trăm thứ tiếng khác, trong đó có khoảng 70 thứ tiếng của người thổ dân
(nguyên thủy, trước thế kỷ 20, là khoảng 400), những người sinh sống trên
quốc gia - lục địa này cả mấy chục ngàn năm trước khi người da trắng đến lập
nghiệp.
Không hoài nghi gì cả, quá trình từ
một trong nhiều ngôn ngữ trở thành một ngôn ngữ chính thức duy nhất trong cả
nước là một quá trình tranh giành quyền lực gay gắt và dai dẳng.
Gay gắt: Ở một số nơi, cuộc tranh
giành quyền lực ấy có thể dẫn đến nạn kỳ thị chủng tộc, hoặc có khi, họa diệt
chủng: Ở Mỹ và ở Úc trước đây, có một thời gian khá dài, trẻ em thổ dân không
được sử dụng tiếng mẹ đẻ của họ trong các trường nội trú. Từ năm 1940, sau
khi sát nhập ba nước Estonia, Latvia và Lithuania vào khối Liên bang Xô Viết,
với bạo lực và các biện pháp hành chính, Nga biến tiếng Nga thành ngôn ngữ
chính thức trong cả ba nước này. Nửa thế kỷ sau, khi hệ thống xã hội chủ
nghĩa bị sụp đổ và khối Liên bang Xô Viết bị tan rã, cả ba nước trên trở
thành độc lập: Một trong những việc họ làm đầu tiên là tuyên bố ngôn ngữ
truyền thống của họ mới là ngôn ngữ chính thức chứ không phải tiếng Nga dù
lúc ấy trong xã hội số người nói tiếng Nga rất nhiều (4).
Không những gay gắt, cuộc đấu tranh để
thành một ngôn ngữ chính thức còn vô cùng dai dẳng, đầy khúc khuỷu, ở nhiều
nơi, cơ hồ không hứa hẹn kết thúc sớm. Ở Sri Lanka, sau khi giành được độc
lập từ Anh, hầu hết các chính khách đều đồng ý sử dụng một ngôn ngữ bản địa
để thay thế tiếng Anh với tư cách một ngôn ngữ chính thức trong cả nước.
Nhưng ngôn ngữ bản địa nào?
Ở Sri Lanka, có hai ngôn ngữ bản địa
chính: Tiếng Tamil và tiếng Sinhala. Trong mấy chục năm, từ đầu thập niên
1940 đến nay, Quốc Hội Sri Lanka thông qua nhiều đạo luật khác nhau, với
những nội dung khác hẳn nhau, lúc thì thiên về tiếng Sinhala, lúc thì thiên
về tiếng Tamil, tùy theo tương quan lực lượng chính trị từng thời kỳ. Cuối
cùng, chính phủ phải tìm cách thỏa hiệp: Tất cả các văn kiện hành chính quan
trọng đều được viết bằng ba thứ tiếng: Tamil, Sinhala và tiếng Anh!
Ở Ireland, mặc dù tiếng Anh là ngôn
ngữ thống trị hầu như toàn bộ đời sống xã hội nhưng trên nguyên tắc, được
Hiến pháp công nhận, ngôn ngữ chính thức của quốc gia gần năm triệu dân này
vẫn là tiếng Irish, một thứ tiếng chỉ phổ cập trong khoảng 40% dân số, chủ
yếu là những người sống ở thôn quê. Lý do: Ðó là ngôn ngữ truyền thống, yếu
tố tạo nên bản sắc của dân tộc.
Ở Nam Phi, một nước có 50 triệu dân,
thường xuyên bị chia rẽ bởi các vấn đề sắc tộc, đã tìm sự thỏa hiệp bằng cách
công nhận đến 11 ngôn ngữ chính thức khác nhau: Afrikaans, Ndebele, Bắc
Sotho, Sotho, Swazi, Tswana, Tsonga, Venda, Xhosa, Zulu và tiếng Anh. Trên
nguyên tắc, tất cả 11 ngôn ngữ này đều bình đẳng với nhau, dù, đóng vai trò
chủ đạo, trong lãnh vực thương mại và khoa học, vẫn là tiếng Anh; trong sinh
hoạt gia đình, vẫn là các tiếng Zulu, Xhosa và Afrikaans.
Ngay ở một nước phát triển giàu mạnh
và có nền dân chủ cao như Canada, cuộc tranh chấp giữa tiếng Anh và tiếng
Pháp với tư cách ngôn ngữ chính thức trong địa phương, đặc biệt ở Quebec, vẫn
còn dằng dai, có lúc có nguy cơ dẫn đến những phân hóa trầm trọng về chính
trị, đặc biệt về cơ chế: Không ít người dân ở Quebec từng lên tiếng đòi quyền
độc lập, hoặc ít nhất, quyền tự trị.
Ở mỗi quốc gia, ngoài sự chọn lựa ngôn
ngữ chính thức, ở một số ngôn ngữ chính thức còn có vấn đề lựa chọn giữa các
văn tự.
Ở Ấn Ðộ, sau khi độc lập, ngoài tiếng
Anh, người ta chọn tiếng Hindi làm ngôn ngữ chính thức. Nhưng tiếng Hindi lại
có ít nhất 13 phương ngữ khác nhau. Quan trọng hơn, tiếng Hindi lại có đến
hai văn tự: Một, được viết dựa trên chữ Sankrit (gọi là chữ Devanagiri) và
một, dựa trên chữ Ả Rập (thường được gọi là Urdu, phổ biến chủ yếu trong cộng
đồng người Hồi Giáo).
Cuộc tranh giành ngôi vị chính thức
giữa hai kiểu chữ viết này không những gắn liền với các cuộc tranh giành
quyền lực giữa các địa phương trên lãnh thổ Ấn Ðộ mà còn với cuộc tranh giành
ảnh hưởng của những người Hồi Giáo và những người theo các đạo khác - chủ yếu
là Ấn Ðộ Giáo, cuối cùng, dẫn đến những tranh chấp khốc liệt giữa Ấn Ðộ và
Pakistan (nơi có nhiều người Hồi Giáo và quyết định chọn hẳn thứ chữ Urdu).
Tiếng Séc và tiếng Croat, thật ra, chỉ
là hai biến thái của một ngôn ngữ duy nhất, thường được gọi chung là tiếng
Serbo-Croatian. Sự khác biệt chủ yếu là ở văn tự: Tiếng Séc được viết theo
mẫu tự Cyrillic - giống như tiếng Nga - trong khi tiếng Croat thì được viết
theo mẫu tự Latin - như tiếng Anh hay tiếng Việt hiện nay. Ðằng sau sự lựa
chọn ấy là lịch sử và tôn giáo: Quốc gia sử dụng tiếng Séc theo Chính Thống
Giáo trong khi quốc gia sử dụng tiếng Croat lại theo Thiên Chúa Giáo. Và đằng
sau cả vấn đề lịch sử và tôn giáo ấy lại là vấn đề chính trị: Mỗi quốc gia
đều muốn khẳng định bản sắc của mình bằng một ngôn ngữ riêng.
Ở Việt Nam cũng vậy.
Ngày xưa, cha ông chúng ta đối diện
với hai lựa chọn chính về văn tự: Chữ Hán và chữ Nôm. Tất cả các triều đại
đều quyết định chọn chữ Hán. Lý do cũng vì chính trị: Chữ Hán gắn liền với
Nho giáo trong khi Nho giáo lại gắn liền với các học thuyết chính trị có lợi
cho nhà cầm quyền, trong đó, có hai điểm quan trọng nhất là: Tư tưởng thiên
mệnh và đạo trung hiếu. Với chữ Hán, các triều đình Việt Nam có một yếu tố
thiết yếu để được “thiên triều” Trung Quốc xem là “đồng văn”, do đó, nhìn
nhận là một vũ khí đắc lực để giữ khoảng cách với dân chúng - khoảng cách
giữa học thức và mù chữ; và với khoảng cách ấy, giới cầm quyền tiếp tục được
linh thiêng hóa, một điều kiện quan trọng để làm nảy nở và duy trì huyền
thoại và, từ đó, quyền lực.
Từ đầu thế kỷ 20, chính quyền thực dân
Pháp quyết định chọn chữ quốc ngữ thay vì chữ Nôm hay chữ Hán cũng lại vì
chính trị nữa: Với chữ quốc ngữ, người ta, một mặt, tách đất nước Việt Nam ra
khỏi quỹ đạo của Trung Quốc, tách người Việt Nam ra khỏi sự ràng buộc của
truyền thống vốn kéo dài cả hàng ngàn năm và được kết tinh chủ yếu qua chữ
Hán, và cô lập hóa giới trí thức Nho học vốn vừa quật cường vừa bảo thủ, vừa
sùng bái Trung Quốc vừa khinh ghét người Tây phương; mặt khác, kéo Việt Nam
lại gần hơn với Pháp. Gần về văn tự: Cả chữ quốc ngữ lẫn tiếng Pháp đều sử
dụng mẫu tự La Tinh.
Gần cả về phương diện lịch sử: Thứ chữ
quốc ngữ ấy là do người Tây phương, trong đó có rất nhiều người Pháp, tạo
nên.
Hầu hết các nhà cách mạng và các trí
thức tân học, kẻ sớm người muộn, đều đồng ý với việc chọn chữ quốc ngữ làm
văn tự chính thức của tiếng Việt. Sự lựa chọn ấy cũng lại là một lựa chọn
mang tính chính trị: Nó gắn liền với chủ nghĩa quốc gia (nationalism). Xin
lưu ý: Mặc dù Việt Nam có lịch sử cả mấy ngàn năm, nhưng khái niệm quốc gia,
và đặc biệt, chủ nghĩa quốc gia chỉ ra đời từ đầu thế kỷ 20 khi người Việt
thoát khỏi ý thức trung quân, ở đó, khái niệm nước bị đồng nhất với khái niệm
vua, và khi người Việt chớm có ý thức công dân, tự xem mình như một chủ thể
của đất nước, ở đó, họ có trách nhiệm trực tiếp đối với vận mệnh của đất
nước.
Yếu tính của đất nước, thoạt đầu, nằm
ở “hồn nước” vốn gắn liền với huyền thoại (dòng giống Lạc Hồng, con Rồng cháu
Tiên); sau, ở ngôn ngữ; và sau nữa, ở chữ quốc ngữ (Nhóm Ðông Kinh Nghĩa
Thục: “Chữ quốc ngữ là hồn trong nước / Phải đem ra tính trước dân ta”). Ðó
là lý do tại sao Phạm Quỳnh lại đồng nhất hai khái niệm nước và tiếng: “Tiếng
Việt còn, nước ta còn” và cũng là lý do tại sao Nguyễn Văn Vĩnh lại xem tương
lai của Việt Nam lại nằm ở chữ quốc ngữ: “Nước Nam ta mai sau này, hay dở
cũng ở chữ Quốc ngữ.”
Sau năm 1945, chính quyền Việt Minh
cương quyết loại trừ tiếng Pháp, chỉ sử dụng tiếng Việt, và trong tiếng Việt,
chỉ sử dụng chữ quốc ngữ trong hệ thống hành chính và học đường cũng là vì lý
do chính trị: Thứ nhất, thực hiện chiêu bài dân tộc hóa họ đã đặt ra ngay từ
thời Văn hóa Cứu quốc; thứ hai, lực lượng của họ chủ yếu đến từ công nhân và
đặc biệt nông dân, những người ít học và có vốn văn hóa thấp. Ðể tranh thủ sự
đồng tình và ủng hộ của các tầng lớp ấy, ngay sau Cách mạng tháng Tám, họ
tung ra ngay hai chiến dịch: Một, xóa nạn mù chữ một cách gấp rút (5); hai,
chủ trương nói và viết một cách nôm na, đơn giản, thật dễ hiểu đối với mọi
người. Cả hai đều nhắm đến một mục tiêu duy nhất: Làm sao cho đông đảo quần
chúng có thể đọc được cái tờ truyền đơn tuyên truyền của đảng Cộng sản.
Cuối cùng, ở phạm vi liên cá nhân,
ngôn ngữ cũng có tính chính trị rõ rệt. Lý do: Mọi giao tiếp liên cá nhân đều
gắn liền với văn hóa. Mà văn hóa, tự bản chất, là một thứ quyền lực. Thứ
nhất, văn hóa nào cũng được xây dựng trên truyền thống; truyền thống nào cũng
được xây dựng trên quán tính; quán tính nào cũng được xây dựng trên sự sùng
bái cái cũ và sự kế thừa: Tính sùng bái là một quyền lực. Thứ hai, về mục
đích, văn hóa nào cũng nhằm, trước hết, xây dựng và củng cố sự hài hòa và
trật tự trong xã hội. Cả sự hài hòa lẫn trật tự đều mang tính đẳng cấp. Do
đó, ngôn ngữ cũng có tính đẳng cấp. Ngày xưa, vua chúa và giới quý tộc có
những kiểu nói riêng, dân chúng có kiểu nói riêng. Trong quan hệ giao tiếp
giữa vua chúa - quý tộc và dân chúng, ngôn ngữ, một mặt, được nghi thức hóa;
mặt khác, phản ánh quyền lực - hoặc không quyền lực - của từng thành phần.
Ngày xưa, cha ông chúng ta hiểu rất rõ
điều đó. Ca dao và tục ngữ Việt Nam cung cấp cả một kho tàng triết lý về việc
nói năng. Chẳng hạn, xem ngôn ngữ như một thứ quyền lực: Miệng nhà quan có
gan có thép, có ảnh hưởng trực tiếp đến số phận con người: Lời nói đọi máu.
Do đó, càng ít nói bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu: Lời năng nói năng lỗi. Trước
khi nói nên suy nghĩ chín chắn: Có miệng thì cắp, có nắp thì đậy; kẻ thất thế
càng nên nói ít: Khó nhịn miệng, bồ côi nhịn lời. Nếu phải nói, nên nói, đừng
viết: Lời nói gió bay, bút sa gà chết. Nếu viết, nên chọn hình thức phù du
nhất: Khôn văn tế dại văn bia. Không nên nói thật: Lời thật mất lòng. Và chỉ
nên nói khéo: Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau,
v.v.
Nói một cách tóm tắt, ở cả ba phạm vi:
Quốc tế, quốc gia và liên cá nhân, bao giờ ngôn ngữ cũng gắn liền với ý niệm
về quyền lực, do đó, đều có tính chính trị. Giới làm chính trị hiểu rõ điều
đó và không ngừng tận dụng ngôn ngữ như một thứ vũ khí để giành giật, và sau
đó, bảo vệ quyền lực.
(Còn tiếp)
Chú thích:
1. Jurgen Jaspers, Jan-Ola Ostman
& Jef Verschueren (2010), Society and Language Use, Amsterdam: John
Benjamins Publishing Company, tr. 180.
2. Ở Việt Nam, khái niệm “ngôn ngữ
chính thức” chỉ được sử dụng lần đầu tiên trong Luật giáo dục tiểu học ngày
10/12/1998 (“Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức dùng trong nhà trường”), tuy
nhiên, trên thực tế, việc này đã được áp dụng một cách mặc nhiên ngày từ sau
năm 1945.
3. Hiện nay, vào tháng 8, 2012, Quốc
Hội Mỹ, lần đầu tiên, mới bàn thảo về đạo luật (H.R. 997) xem tiếng Anh là ngôn
ngữ chính thức trong cả nước. Xem bài “English can unify America” trên báo
Politico:http://www.politico.com/news/stories/0812/80054.html
4. Catrin Norrby & John Hajek
(2011), Uniformity and Diversity in Language Polity: Global Perspectives,
Bristol (England): Multilingual Matters, tr. 37-52.
|
Thứ Sáu, 31 tháng 8, 2012
Tính chính trị của ngôn ngữ trong phạm vi quốc gia
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bấm vào dưới avata "Tham gia trang web này " để có thể biết bài mới của Ròm